Pages

16 thg 2, 2013

“Miễn phí” mà vẫn kiếm nhiều tiền


Google là một trong những công ty sinh lời nhất nước Mỹ. Họ đã kiếm được rất nhiều tiền mà không bắt người khác phải trả tiền. Miễn phí nhưng vẫn kiếm đủ để căn bản tạo nên một nền kinh tế với quy mô của một quốc gia khá lớn. Chuyện này xảy ra như thế nào và sẽ đi về đâu?

Nguyên tác: Free - Tác giả: Chris Anderson
Người dịch: Phan Triều Anh - Nhà xuất bản trẻ phát hành
Về tác giả
Chris Anderson sinh năm 1961, hiện đang sinh sống ở California, USA. Ông từng làm việc cho các tạp chí nổi tiếng như Nature, Science và The Economist.
Năm 2001, ông lãnh đạo tờ Wired - một tạp chí đã giành nhiều giải thưởng lớn ở Hoa Kỳ. Năm 2006, ông xuất bản cuốn “Cái đuôi dài” (Long Tail) - best seller thời điểm ấy.


Năm 2009, ông được đưa vào danh sách 50 nhà tư tưởng lớn của thế giới, cùng với những nhân vật như Steve Johs, Jack Welch, Bill Gate, Paul Krugman, Joseph Stiglitz, Michael Porter, Daniel Goleman, Thomas Freedman…
Nội dung chính
LỜI GIỚI THIỆU
Với chiếc máy tính xách tay, ở quán cafe wifi, ta có thể ngồi làm việc một cách thoải mái. Mọi cái ta thực hiện trên máy tính từ thư điện tử cho đến lời nhắn tin trên Twitter, chạy chương trình duyệt Firefox, Google… đều hoàn toàn miễn phí (trừ café).
Miễn phí của thế kỷ XXI khác với thế kỷ XX như thế nào? Miễn phí không có gì mới, nhưng nó đang thay đổi, phải thấu hiểu miễn phí kiểu mới để chi phối thị trường ngày mai.
SỰ RA ĐỜI CỦA MIỄN PHÍ
Cuối thế kỷ XIX, Pearle Wait chiết xuất chất Glatin từ thịt và xương để tạo ra một gia vị thực phẩm mới rất hấp dẫn là Joll_0. Nhưng ông không thể bán được hàng vì sản phẩm còn rất xa lạ với người tiêu dùng. Cuối cùng ông phải bán nhãn hiệu này cho Frank Woodward với giá 450 USD. Nhưng rồi tình hình thật ảm đảm, hàng tồn kho ngày càng nhiều, Woodward nản chí, bán lại cho Nico với giá 35 USD nhưng Nico từ chối.
Năm 1902, Woodward cùng người phụ tá của mình thử cách khác: Trước hết họ đăng một mẫu quảng cáo trên Ladies’Home journal với giá 336 USD, rồi in hàng ngàn quyển sách mỏng giới thiệu Joll_0 với những công thức chế biến thực phẩm phát miễn phí cho các bà nội trợ.
Đến 1904 chiến dịch bán hàng đã thành công rực rỡ, doanh số đạt đến 1 triệu USD. Woodward hiểu rằng “miễn phí là một từ có quyền năng siêu việt”, miễn phí không có nghĩa là phi lợi nhuận mà có nghĩa rằng sản phẩm phải đi trên con đường gián tiếp đến với thị trường.
King Gillette
Cùng khoảng thời gian đó, tại Boston, một ngày nọ, King Gillette đang cạo râu bằng con dao xếp đã mòn đến mức không còn mài được nữa, ông nảy ra ý tưởng làm lưỡi dao bằng một băng kim loại mỏng, để thay vì phải mất thời gian mài dao, người ta chỉ cần vứt đi khi dao cùn. Lưỡi dao cạo dùng xong rồi bỏ đã ra đời từ đó.
Trong năm đầu 1903, Gillette chỉ bán được tổng cộng 51 con dao và 168 lưỡi dao. Những năm tiếp theo, Gillette đã thử mọi mẹo marketing, như: cho in hình mình trên bao bì, bán hàng triệu dao cạo cho quân đội với giá rẻ, bán từng lô dao cạo cho ngân hàng để họ tặng khách hàng, dao cạo được bán kèm với mọi thứ từ kẹo cao su đến các gói café, trà, hương liệu, thậm chí phát không cho khách hàng.
Bằng những cách ấy, Gillette đã tạo ra nhu cầu lưỡi dao cạo dùng xong rồi bỏ. Gillette đã bán dao cạo với giá rất rẻ, nhưng lưỡi dao thì có giá tương đối cao.
Sau này, người ta áp dụng mô hình của Gillette trong tất cả các ngành: cho không điện thoại di động, thu phí sử dụng hàng tháng; bán máy chơi game với giá rẻ nhưng bán các trò chơi với giá đắt; lắp đặt các máy pha café tại các văn phòng không thu phí để rồi bán café gói cho các chủ văn phòng.
Vào buổi bình minh của thế kỷ XX, miễn phí tiếp thêm sức sống cho cuộc cách mạng của người tiêu dùng. Miễn phí là lời hiệu triệu của những nhà tiếp thị hiện đại và luôn được người tiêu dùng đáp lại.
Miễn phí của thế kỷ XXI
Miễn phí của thế kỷ XXI không phải là thứ mẹo, mà là một khả năng mới phi thường làm giá thành của sản phẩm và dịch vụ giảm xuống gần bằng không. Hình thức miễn phí dựa trên kinh tế học của những con số nhị phân chứ không phải là nguyên tử. Đó là phẩm chất độc nhất vô nhị của thời đại số khi mà một thứ nào đó trở thành phần mềm thì nó không tránh khỏi trở thành miễn phí.
MIỄN PHÍ LÀ GÌ?
Miễn phí nhập môn.
Miễn phí gốc là một từ ghép trong tiếng Latin bao gồm từ Liber (tự do) và Grastis (để cảm ơn). Ý nghĩa “tự do” tích cực đôi lúc cũng gây ra sự mơ hồ nên phải dùng từ Gratis để nhấn mạnh thực sự miễn phí. Nhưng rồi kết cục người ta lại dùng một từ free duy nhất. Từ free, miễn phí hay tự do có gốc từ tiếng Anh cổ freon, freogan (tự do, tình yêu). Như vậy, free - miễn phí xuất phát từ ý niệm xã hội của sự giải thoát, cả khỏi ách nô lệ lẫn chi phí.
Muôn hình vạn trạng của chi phí.
"Miễn phí” có rất nhiều ý nghĩa. Đôi lúc “free” không thực sự miễn phí: mua một tặng một, miễn phí giao hàng (có nghĩa phí giao hàng đã tính trong giá bán), hàng mẫu miễn phí (free sample), dùng thử miễn phí (free trial) - tạo tâm lý mắc nợ, khuyến khích người tiêu dùng mua sản phẩm nguyên giá…
Đôi khi miễn phí thực sự là miễn phí và đây là mô hình mới, hầu hết số này có tính trực tuyến, nơi mà kinh tế số thống trị với mức phí tiến dần bằng không.
Các dạng miễn phí nói trên đều chỉ là biến thiên của một mô hình chung: điều chuyển tiền vòng quanh từ sản phẩm này sang sản phẩm khác, từ người này sang người khác, giữa hiện tại và tương lai, hoặc vào thị trường phí tiền tệ rồi trở ra. Các nhà kinh tế học gọi chúng là “hỗ trợ qua lại”.
Cả thế gian đều hỗ trợ qua lại.
Hỗ trợ qua lại là tinh thần của thành ngữ “Không có gì là miễn phí” (There’s no such thing as a free luch – đừng hòng có bữa trưa mà không phải trả tiền). Điều đó có nghĩa là cách này hay cách khác sẽ có người trả tiền cho bữa trưa.
Hỗ trợ qua lại có thể diễn ra theo một vài hình thức khác nhau:
- Sản phẩm có chi phí bù cho sản phẩm miễn phí.
- Trả tiền sau, tài trợ cho miễn phí hiện tại, tiền sử dụng điện thoại hàng tháng trả cho chiếc điện thoại miễn phí ban đầu.
- Những người trả tiền, tài trợ cho những người miễn phí, đàn ông mua vé vào hộp đêm, có thể dẫn theo phụ nữ không phải trả tiền. Người lớn dẫn trẻ em vào vườn bách thú miễn phí nhưng rồi người lớn phải trả tiền cho những trò chơi của trẻ…
Mô hình miễn phí rơi vào một trong bốn loại sau:
1/ Hỗ trợ chéo trực tiếp:
Cho không sản phẩm hoặc dịch vụ để khuếch trương và thu lợi các sản phẩm và dịch vụ khác (ví dụ về King Gillette, về điện thoại miễn phí).
2/ Thị trường ba bên:
Đài phát thanh, truyền hình phủ sóng miễn phí, mạng internet, các đối tượng khách hàng dùng các phương tiện đó miễn phí nhưng các nhà quảng cáo sẽ trả tiền cho mọi thứ. Người tiêu dùng có cảm giác mặt hàng chính yếu mình đang quan tâm là miễn phí, nhưng cuối cùng họ cũng sẽ mất tiền một cách gián tiếp, qua mức giá sản phẩm cao hơn.
3/ Miễn phí giá cao:
Năm 2009, Chris Anderson được đưa vào danh sách 50 nhà tư tưởng lớn của thế giới, cùng với những nhân vật như Steve Johs, Jack Welch, Bill Gate, Paul Krugman, Joseph Stiglitz, Michael Porter, Daniel Goleman, Thomas Freedman…
Với sản phẩm số, 5% khách hàng sẽ trả tiền cho 95% khách hàng còn lại, điều này có nghĩa là mỗi khách hàng trả tiền sử dụng phiên bản giá cao đầy đủ chức năng thì mười chín người khác được sử dụng phiên bản miễn phí ít chức năng hơn.
4/ Thị trường phi tiền tệ. Dạng này có vài hình thức:
Nền kinh tế quà tặng: Mười hai triệu bài viết trên wikipedia, hàng triệu món đồ đã qua sử dụng được rao trên Freecyete chỉ để cho tặng, bạn cho Google thông tin khi bạn sở hữu một website mở, bạn cho một kẻ vô gia cư những vật dụng mà anh ta nhặt từ thùng rác nhà bạn… Phương thức phân phối với chi phí bằng không đã biến việc chia sẻ trở thành một ngành kinh doanh, theo đó bạn sẽ được những giá trị như niềm vui, sự thỏa mãn, danh tiếng, và internet cung cấp một nền tảng cho phép hành động của từng cá nhân có thể gây ảnh hưởng toàn cầu.
Đổi công: Mỗi lần bạn tìm kiếm trên Google, bạn đã giúp Google cải thiện các thuật toán nhằm mục tiêu quảng cáo của họ. Dù bạn có nhận thức được hay không, bạn đã trả bằng công lao động của mình cho một thứ hàng miễn phí.
Vi phạm bản quyền: Âm nhạc trực tuyến thể hiện bằng việc chuyển đổi nhạc sang dạng số và chia sẻ chúng qua mạng, chi phí cho phổ biến âm nhạc thực sự chạm đáy, mọi biện pháp chống lại sự vi phạm bản quyền đã chào thua. Người nghệ sĩ phải chấp nhận thực tế đó, đối với họ, âm nhạc như một phương tiện tiếp thị, là niềm vui, xây dựng hình ảnh và danh tiếng.
Ba mức giá: Hầu như ta chỉ nói về hai mức giá trị: có phí và miễn phí, nhưng còn một mức giá thứ ba thấp hơn cả miễn phí, đó là mức giá âm: bạn được trả tiền để sử dụng một sản phẩm hoặc dịch vụ thay vì ngược lại. Trong hầu hết các trường hợp thì trước sau gì rồi bạn cũng bỏ tiền ra. Ví dụ: phần tiền được thưởng sau khi thanh toán đầy đủ tạo ra một tâm lý hoàn toàn khác so với việc phải trả một số tiền ít hơn ngay từ đầu.
LỊCH SỬ MIỄN PHÍ
Số 0
Khi người Ấn Độ phát minh ra môn đại số, họ mở rộng thêm số âm và số 0 từ thế kỷ IX. Từ “zero” trong ngôn ngữ Ấn là Sunya, có nghĩa là trống rỗng, người Ả Rập chuyển thành sifr, phương Tây Latin hóa nó thành zephirus, chính là gốc của từ zero.
Rắc rối của miễn phí
Đến năm 900, đã có đủ ký hiệu lẫn cơ sở đại số cho khái niệm “không” thì nó đã cùng tồn tại song song với khái niệm “economics”. Từ nguồn gốc Hy Lạp cổ, oikos (nhà) và nomos (tập quán hay luật lệ) do đó nó có ý nghĩa là “luật gia đình” và miễn phí luôn là luật trong nhà.
Từ khi nền kinh tế trên cơ sở tiền tệ hình thành, các giao dịch hầu như không liên quan đến giá cả mà dựa trên sự hào phóng, tin tưởng, thiện chí giữa các láng giềng và các nhóm xã hội. Vào thế kỷ XVII, khái niệm thuế lũy tiến ra đời, việc thành lập các thể chế nhà nước tạo ra một dạng miễn phí đặc biệt: bạn có thể không trả phí cho dịch vụ của chính quyền, nhưng bạn sẽ chẳng bao giờ biết chính xác bao nhiêu tiền thuế của mình được dùng để phục vụ trực tiếp cho bạn.
Bữa trưa miễn phí đầu tiên
Đến cuối thế kỷ XIX, nền kinh tế thị trường đã được thiết lập vững vàng, đồng tiền đã chứng tỏ mình là xúc tác cho tăng trưởng và là chìa khóa để đến với thịnh vượng. Đến thời kỳ mà King Gillette và Pearle Wait tạo dựng được cả gia sản từ miễn phí, khách hàng đã quen thuộc với câu “làm gì có bữa trưa miễn phí”.
Hàng mẫu, quà tặng và dùng thử
Vào đầu thế kỷ XX, miễn phí đã trở thành một mẹo bán hàng. Xà phòng Babbitt’s Soap trở nên nổi tiếng toàn quốc nhờ các chiến dịch quảng cáo và khuyến mãi, trong đó có đợt phân phối hàng dùng thử miễn phí trên quy mô lớn đầu tiên.
Free như một vũ khí cạnh tranh
Ngày nay, chúng ta biết rằng cách hủy diệt nhất để xâm nhập thị trường là phá hủy tính kinh tế của những mô hình kinh doanh đang tồn tại. Chẳng hạn không tính tiền sản phẩm đang là nguồn lợi nhuận chủ yếu của đối thủ.
Vụ đánh cược sai lầm của Ehrlick
Ý tưởng hàng hóa sẽ trở thành rẻ hơn chứ không đắt hơn theo thời gian là ngược với trực giác. Thực phẩm có thể tái tạo chứ khoáng sản thì không, chúng ta khai quặng càng nhiều thì còn lại càng ít, đó là điển hình của khan hiếm trong lúc dân số thế giới ngày càng gia tăng. Nhưng tháng 9/1980, Paul Ehrlick, một nhà sinh học dân số, và Julian Simon, một nhà kinh tế học, đã đánh cược với nhau một cách công khai với số tiền là 10.000 USD.
Simon tuyên bố: “Giá của các nguyên liệu khô mà nhà nước không kiểm soát sẽ không tăng trong dài hạn”. Ehrlick chọn năm kim loại là đồng, chrome, nickel, thiếc và tungsten. Mười năm sau, giá các kim loại đó đã giảm hơn một nửa - Simon đã thắng cược. Vì sao Simon thắng cược? Vì ông là một nhà kinh tế tài ba, hiểu được tác động của hàng hóa thay thế: Nếu một mặt hàng trở nên quá khan hiếm và đắt đỏ, đó sẽ là động cơ để tìm kiếm mặt hàng thay thế có nhiều hơn. Óc sáng tạo của loài người và khả năng rút kinh nghiệm trong khoa học và công nghệ sẽ có xu hướng tạo ra các nguồn lực mới nhanh hơn tốc độ sử dụng.
Mù lòa trước dư dả
Điều hiển nhiên là Simon có nhiều cơ hội thắng cuộc hơn. Nhưng khuynh hướng để ý đến những thứ khan hiếm hơn là thừa thãi xuất hiện. Ví dụ tiêu biểu nhất là plastic: người ta bán thế hệ chất dẻo plastic đầu tiên không phải như chất dùng xong rồi bỏ, nhưng thế hệ thứ hai của plastic với Vinyl và Polystyrene thì rẻ đến nỗi người ta có thể dùng xong rồi vứt đi mà không phải bận tâm chút nào.
Sau thập niên 70, thái độ đối với siêu thừa thãi như vậy đã bắt đầu thay đổi. Chi phí xử lý môi trường phải trả cho văn hóa tiêu dùng một lần rồi bỏ đã trở nên rõ ràng hơn. Cho nên, một thế hệ mới bắt đầu công việc tái chế đồ bỏ đi.
Sự thừa thãi lên ngôi
Câu chuyện của thế kỷ XX là câu chuyện sự thay đổi ghê gớm về mặt xã hội và kinh tế do sự dư dả dẫn dắt. Tương tự như việc nước luôn luôn chảy xuôi, tính kinh tế chảy về phía có sự dư thừa. Những công ty tìm kiếm lợi nhuận phải ngược dòng tìm kiếm sự khan hiếm mới, điều đó Tim O’Reilly gọi là “ định luật bảo toàn mức lợi nhuận hấp dẫn”. Ngày nay, chỉ còn 32% công ty chế tạo ra sản phẩm cầm nắm được. Các công ty còn lại chuyển qua cung cấp dịch vụ, tạo ra sản phẩm sở hữu trí tuệ, tạo ra thị trường cho sản phẩm của những người khác.
Một vài thập kỷ trước, giá trị lớn nhất nằm trong sản xuất. Sau đó toàn cầu hóa nằm trong sản xuất. Ngày nay mức lợi nhuận cao nhất thường thấy ở những nơi chất xám kết hợp với vật chất. Sự kết hợp giữa kiến thức, kỹ năng và tư duy trừu tượng là điều làm nên một người lao động tri thức có hiệu quả.
KHOA HỌC TÂM LÝ VỀ MIỄN PHÍ
Nếu có thứ gì đó trước đây phải mất tiền mua, còn nay thì không, chúng ta có xu hướng đồng hóa hiện tượng đó với suy giảm chất lượng. Nhưng đối với những thứ chưa bao giờ phải mất tiền mua, chúng ta không suy nghĩ tương tự.
Kẽ hở tí hon
Trong hầu hết các trường hợp, chỉ một xu - một mức giá thường được coi như vô nghĩa - cũng có thể ngăn đại đa số người tiêu dùng lại. Vì bộ não của chúng ta được thiết kế để báo động mỗi khi chúng ta gặp phải một cái giá, lời báo động là “có đáng không nhỉ?”. Và chúng ta có xu hướng lựa chọn những thứ đòi hỏi ít phải suy nghĩ nhất. Theo cách nhìn của khách hàng, giữa rẻ và miễn phí có một khoảng cách vô cùng lớn.
Giá của miễn phí
Hầu hết các giao dịch có ưu điểm lẫn nhược điểm, nhưng khi có thứ gì cung cấp miễn phí, chúng ta sẽ quên mất nhược điểm của nó. Đó là vì người ta có bản chất sợ thiệt thòi. Khi nhận được cái gì đó miễn phí, bạn không hề phải đối diện với một khả năng bị mất mát nào cả, nhưng khi bạn chấp nhận một thứ không miễn phí, xác xuất chịu mất mát xuất hiện.
Không chi phí, không cam kết
Miễn phí có thể khuyến khích thói tham ăn, vơ vét, tiêu dùng thiếu suy nghĩ, tội lỗi và lòng tham. Chúng ta lấy đồ vì chúng có sẵn đó chứ không phải vì chúng ta cần. Cứ áp một mức giá, dù rất thấp chăng nữa, cũng sẽ khuyến khích hành vi có trách nhiệm hơn. Miễn phí là cách tốt nhất để tối đa hóa số người có thể tiếp cận với sản phẩm, dịch vụ, nhưng không phải đó là cái đích cuối cùng bạn nhắm tới, nó có thể gây ảnh hưởng tiêu cực. Như một công cụ mạnh khác, miễn phí phải được sử dụng cẩn thận bằng không thì lợi bất cập hại.
Phương trình thời gian / tiền bạc
Tại một thời điểm nào đó trong đời, bạn có thể tỉnh dậy và nhận ra rằng bạn có nhiều tiền hơn thời gian, rồi bạn cũng nhận ra rằng mình cần bắt đầu làm khác đi. Bạn trả tiền cho thứ gì đó để giảm bớt rủi ro vì giá cả đi liền với đảm bảo, trong khi miễn phí thì không.
Miễn phí lại có tác dụng tuyệt vời khi đi cùng với trả tiền. Nó có chỗ cho những tâm lý thay đổi của những khách hàng khác nhau, từ những người có nhiều tiền hơn thời gian cho đến những người nhiều thời gian hơn tiền bạc.
Đầu óc vi phạm bản quyền
Vi phạm bản quyền là một hình thức trộm cắp đặc biệt, thường bị những kẻ vi phạm cũng như những người tiêu thụ hàng hóa vi phạm bản quyền coi hành vi vi phạm nhưng không có nạn nhân.
Lập luận của họ là hàng hóa vi phạm hiếm khi thay thế được hàng hóa hợp pháp. Thay vào đó, nó cho phép sản phẩm tiếp cận với những người không đủ tiền mua hàng hợp pháp hoặc có tiền nhưng không chịu mua hàng hóa hợp pháp.
Cliff Harris tạo ra các trò chơi điện tử với mức giá 20 dollar nhưng lập tức các trò chơi của ông vi phạm bản quyền. Ông nghiên cứu, tìm hiểu và nhận ra rằng, người sử dụng đánh giá sản phẩm của ông thấp hơn ông tưởng, ông nghĩ mọi nỗ lực đảo ngược vấn đề là vô ích. Harris giảm giá các trò chơi của mình còn một nửa, nâng cao chất lượng trò chơi, làm gian hàng trên mạng của mình dễ sử dụng hơn để cạnh tranh với miễn phí.
MIỄN PHÍ KỸ THUẬT SỐ
Quá rẻ nên chẳng đáng quan tâm
Vào năm 1954, Lewis Strauss dự đoán những điều vĩ đại sẽ đến: bệnh tật sẽ bị khuất phục, con người di chuyển vượt đại dương, du hành trên không với vận tốc khổng lồ, chúng ta sẽ dùng điện với giá rất rẻ đến nỗi không phải mất công đo đếm… sẽ thay đổi thế giới .
Và thực sự khi khoa học và kỹ thuật bùng nổ sau chiến tranh, kinh tế tăng trưởng với mức độ chưa từng thấy, nhưng điện năng thì không rẻ đến mức có thể bỏ qua không cần đo đếm. Ngày nay có 3 công nghệ khác cũng có ý nghĩa đối với nền kinh tế với mức độ tương đương điện năng, đó năng lực xử lý của máy tính, lưu trữ kỹ thuật số và băng thông. Cả ba đang ngày càng rẻ đến nỗi người ta không phải bận tâm.
Đón rẻ
Khi chi phí mặt hàng bạn sản xuất giảm đều đặn, bạn có thể áp dụng cơ chế giá mà thoạt nhìn có thể coi là điên rồ. Thay vì bán nó với mức phí ngày hôm nay, bạn có thể bán nó với mức phí của ngày mai. Kevin Kelly gọi đó là “đón rẻ”. Chẳng hạn đầu thập niên 1960, hãng Fairchild Semiconductor đang bán những con transistor đầu tiên với mức giá 100 USD. Họ hiểu rằng sản lượng tăng chi phí sẽ giảm nhanh chóng, họ dùng chiến thuật đi trước triển vọng giảm giá, họ đặt mục tiêu với mức giá 1,05 USD, sau đó 50 cent mà vẫn thu được lợi nhuận, họ bảo “chúng tôi bán vào tương lai”.
Tại sao định luật Moore phù hợp với thực tế?
Hầu hết các quy trình sản xuất công nghiệp ngày càng cải thiện và diễn tiếp theo hiện ứng được biết đến với tên gọi là đường học tập (Learning curve), nhưng chỉ các quy trình đặt nền tảng trên chất bán dẫn là cải thiện nhanh hơn và duy trì lâu hơn. Về mặt kinh tế, đầu vào của sản phẩm bán dẫn hầu như tuyệt đối là trí tuệ thay vì vật chất. Ý tưởng là thứ hàng hóa thừa thãi sau cùng, có thể phát tán với mức chi phí biên bằng không, ý tưởng tự nó muốn được truyền bá rộng rãi, làm sung túc thêm cho mọi thứ khi nó chạm đến. Bản quyền được đặt ra như nỗ lực ngăn cản dòng chảy tự nhiên của ý tưởng, nhưng rồi bằng phát minh sáng chế cũng hết hạn, ý tưởng không thể che giấu mãi mãi.
Sản phẩm được tạo ra từ ý tưởng thay vì từ vật chất rẻ đi nhanh chóng hơn. Đây là gốc rễ của sự thừa thãi, điều dẫn tới miễn phí trong thế giới kỹ thuật số mà ngày nay chúng ta nói ngắn gọn là định luật Moore.
Định luật Mead
Gordon Moore nói rằng: “Nếu năng lực của máy tính ở một mức giá nhất định tăng gấp đôi sau mỗi hai năm, thì chi phí cho mỗi đơn vị năng lực tính toán phải giảm đi một nửa trong cùng khoảng thời gian đó”. Giống như Moore, Mead thấy rằng việc năng lực tăng gấp đôi sau mỗi mười tám tháng sẽ còn tiếp tục lâu dài vì nó được dẫn dắt bởi đường học hỏi và đường kinh nghiệm mà ông gọi là “đường kinh nghiệm kép”. Điều mà Mead nhận ra là hiệu ứng kinh tế này mang theo nó một mệnh lệnh tinh thần. Nếu Transistor đã trở nên quá rẻ, ông bảo các lập trình viên hãy phí phạm nó đi.
Con chuột cất tiếng rống
Kỹ sư Alan Kay phát triển một mẫu máy tính - Dynabook - có thể tận dụng các mạch silicon làm những chuyện vui vẻ trên màn hình như vẽ, định hướng con trỏ bằng chuột… Điều Kay nhận ra là làm cho công nghệ thật rẻ, dễ sử dụng và phổ biến để ai cũng có thể dùng được, để rồi nó có mặt khắp thế giới. Nhờ phí phạm transistor như vậy mà thế giới đã thay đổi.
Sắt và kính
Câu chuyện về chất bán dẫn đã trở thành huyền thoại của nền kinh tế kỹ thuật số. Sự thật là hai công nghệ có liên quan là không gian lưu trữ và băng thông đã vượt qua nó trong cuộc đua xuống đáy. Chiếc đĩa lưu trữ làm bằng sắt có thể giữ được từ trường mạnh, và ngành khoa học trung tâm ở đây là quang học. Tuy nhiên, tỷ lệ chất xám trên vật chất là mức cao, do đó các sáng kiến đổi mới thường xuất hiện để tái khởi động chu kỳ cải tiến kỹ thuật.
Điều thừa thãi có thể tạo ra
Băng thông rẻ đến mức không phải bận tâm nữa mang lại cho chúng ta Youtube. Nó nhanh chóng cách mạng hóa ngành truyền thông. Không gian lưu trữ rẻ đến mức không còn đo đếm đã mang đến cho chúng ta Gmail với dung lượng hộp thư không giới hạn, chưa nói đến Tivo, Flicks, Myspace và Ipod. Apple gia tăng dung lượng của đĩa cứng mà vẫn giữ nguyên giá và tốc độ nhanh hơn cho nhu cầu lưu trữ âm nhạc. Toshiba sẽ sớm sản xuất loại đĩa cứng cỡ 1,8inch lưu trữ được 5 gigabyte.
Giờ thì sự kết hợp cả ba công nghệ - xử lý, lưu trữ và băng thông - đã tạo ra web, sự thừa thãi đã nhân gấp bội.
“THÔNG TIN MUỐN TRỞ THÀNH MIỄN PHÍ”
Lịch sử một tuyên ngôn của thời đại số Steven Levy liệt kê bảy “triết lý của hacker”:
1. Việc tiếp cận với máy tính - và mọi thứ có thể dạy bạn chút gì đó về cách thức vận hành của thế giới - là không hạn chế và toàn diện.
2. Luôn luôn tuân theo niềm thôi thúc tự mình làm lấy!
3. Mọi thông tin cần được tự do.
4. Nghi ngờ quyền lực - cổ vũ cho phân quyền.
5. Đánh giá một hacker dựa trên khả năng thâm nhập như bằng cấp, tuổi tác, chủng tộc hoặc địa vị.
6. Chúng ta có thể tạo ra nghệ thuật và cái đẹp từ một chiếc máy tính.
7. Máy tính có thể làm cuộc đời ta tốt đẹp hơn.
CẠNH TRANH VỚI MIỄN PHÍ
Ngày 3/3/1975, Bill Gates của Microsoft viết “Thư ngỏ gửi những kẻ đánh cắp phần mềm”. Ông cảnh báo nếu việc này còn tiếp diễn, ông sẽ không thể viết phần mềm mới và mọi người sẽ cùng chịu thiệt.
Nhưng việc sao chép bất hợp pháp không bao giờ biến mất hoàn toàn, khi phần mềm chuyển từ các đĩa mềm khó sao chép sang CD, việc sao chép bất hợp pháp bùng nổ. Microsoft thêm mã an ninh trên gói sản phẩm với tem có hình ảnh ba chiều, kiện tụng, tuyên truyền đánh động, ngoại giao. Nhưng tình hình vẫn không thể kiểm soát nổi, nhất là ở các nước đang phát triển. Gates nói: “Dù sao thì một ngày nào đó họ sẽ trả, và khi họ còn ăn cắp thì chúng tôi muốn họ ăn cắp phần mềm của mình, họ sẽ trở nên nghiện và rồi chúng tôi sẽ tìm ra cách nào đó thu tiền vào thập kỷ tới”.
Dùng thử miễn phí
Trong thập niên 1990, các đối thủ cạnh tranh với Microsoft như WordPerfect office và Lotus Smartsuite chỉ yêu cầu các nhà sản xuất máy tính cá nhân phải trả một mức phí rất thấp để phần mềm của họ được đóng gói bán chung với máy tính mới. Gates quyết định đáp trả. Microsoft phát triển phiên bản giảm bớt tính năng của bộ office, được gọi là Microsoft works, và chỉ thu 10 dollar từ nhà sản xuất máy tính để bán kèm với bộ máy tính mới. Mức giá này cạnh tranh có hiệu quả, bởi vì works tương thích về định dạng file với bộ office đầy đủ, đây là cách để giữ người tiêu dùng trong phạm vi ảnh hưởng của Microsoftt. Công ty nhanh chóng phát triển trình duyệt miễn phí của riêng mình, internet explorer và gộp nó vào cùng mọi phiên bản hệ điều hành của công ty. Chiến lược này đã đạt kết quả mong muốn. Các viên chức chống độc quyền đã tố cáo công ty đã “trói” một sản phẩm miễn phí vào một sản phẩm mới trả tiền. Microsoft đã phải trả giá bằng hàng thập kỷ bị kiện cáo độc quyền và phải nộp phạt bởi hành vi chống lại tự do cạnh tranh.
Cuộc tấn công của chim cánh cụt
Lim Torvalds thực hiện một dự án khiêm tốn để tạo ra một biến thể đơn giản của hệ điều hành Unix mà ông gọi là Linux. Nhờ có mã lệnh tốt, tính cách lôi cuốn và kỹ năng tổ chức của người đứng đầu và quan trọng nhất là web đã trở thành phương tiện cho hợp tác toàn cầu, Linux đã cất cánh.
Từ cuối những năm 1990, trong nội bộ Microsofl thì Linux chỉ được coi như thêm một con muỗi quấy rầy nữa, không nghiêm trọng đến mức phải điều chỉnh chiến lược. Tại sao Microsofl phải mất rất nhiều thời gian mới nhận ra mối đe dọa? Năm giai đoạn đau đớn được Elisabeth Kybles-Ross kể như sau:
Giai đoạn 1: Chối bỏ
Microsoft làm gì trong thập kỷ đầu tiên của Linux? Chủ yếu là hy vọng hệ điều hành miễn phí này sẽ biến mất như hầu hết các phần mềm miễn phí trước đó. Microsoft thấy bối rối là tại sao khách hàng lại muốn dùng phần mềm miễn phí và rước mọi rắc rối đi cùng sản phẩm đó? Những người điều hành Microsoft coi nguồn mở chỉ là một thứ bị thổi phồng quá đáng. Các dự án phức tạp trong tương lai sẽ đòi hỏi các nhóm lớn và vốn đầu tư lớn mà đối thủ sẽ không thể nào thích hợp.
Giai đoạn 2: Tức giận
Microsoft quyết định lấy kinh tế làm chiến lược tấn công. Chi phí thực sự của phần mềm không phải là giá mua mà là chi phí duy trì. Microsoft công bố tài liệu “Năm chuyện hoang đường của Linux”, liệt kê những khuyết điểm kỹ thuật, tính năng, miễn phí thì không thực sự miễn phí, các nhà quản trị hệ thống Linux phải bỏ rất nhiều thời gian để hiểu những lỗi kỹ thuật đó. Tuy nhiên, những cáo buộc của Microsoft không có tác dụng. Giám đốc quan hệ công chúng tuyệt vọng: “Chúng ta phải phản ứng có hiệu quả hơn trước những thông tin báo chí về việc chính phủ và các tổ chức lớn đang xem xét các lựa chọn (nguồn mở) khác thay vì sản phẩm của chúng ta…”.
Giai đoạn 3: Mặc cả
Đến thời điểm của Linux world 2002, Microsoft đã rõ là họ cần có một chiến lược mới. Một cán bộ của Microsoft phát biểu: “Như thực tế trong quá khứ, mọi thứ chúng tôi nói chỉ đào huyệt chôn mình sâu hơn…”. Tại Linux world, các đại diện của Microsoft mặc áo có dòng chữ “Hãy đối thoại”.
Giai đoạn 4: Suy sụp
Năm 2003, họ thuê Bill Hilf, người từng điều hành chiến lược Linux thành công của IBM. Khi nói chuyện với các kỹ sư, Hilf nhận ra: “Rõ ràng là họ chẳng biết gì về nguyên lý vận hành nguồn mở, có một sự hiểu nhầm khủng khiếp - họ chỉ thấy nó như một đe dọa”.
Hilf muốn xây dựng một phòng thí nghiệm nguồn mở tại Microsoft, nó bị coi như một cơ sở có nguy cơ rủi ro sinh học. Những ai làm việc với nguồn mở không thể làm việc trong bất kỳ dự án nào khác của Microsoft.
Giai đoạn 5: Chấp nhận
Phòng thí nghiệm của Hilf hoạt động. Điều gì đã thay đổi? Đó là tính thực tế của cấp lãnh đạo, Gates và Ballmer. Đã đến lúc Microsoft phải thích nghi đảm bảo rằng phần mềm của họ chạy được với nguồn mở và ngược lại.
Thị trường đã quyết định rằng, có chỗ cho cả ba mô hình: hoàn toàn miễn phí, miễn phí phần mềm nhưng phải trả tiền cho hỗ trợ, và trả tiền cho mọi thứ.
Yahoo đấu với Google
Yahoo là nhà cung cấp dịch vụ thư điện tử trên web lớn nhất, với khoảng 125 triệu người sử dụng. Đó là một công việc béo bở.
Ngày 1/4/2004, Google thông báo về một dịch vụ thư điện tử mới trên web gọi là Gmail với dung lượng lưu trữ 1 Gigabyte miễn phí - gấp 100 lần con số của Yahoo. Google chưa có khách hàng dùng thư điện tử, nên họ đề xuất dịch vụ với dung lượng lớn như vậy thì chỉ cần vài máy chủ có thể chăm lo được cho vài ngàn khách hàng đầu tiên.
Muốn giữ vị trí hàng đầu, Yahoo phải đưa ra đề nghị hấp dẫn hơn nữa. Đến năm 2007, Yahoo tung hết chiêu, công bố không giới hạn hộp thư điện tử miễn phí. Cuối cùng chiến lược đã phát huy hiệu quả. Yahoo không mất đi thị phần quan trọng. Nhưng Google vẫn chưa bó tay, họ chỉ mới bắt đầu cuộc đua.
LOẠI TIỀN RA KHỎI CUỘC CHƠI
Google và sự ra đời của một mô hình kinh tế thế kỷ XXI
Ngày nay, Google có gần 100 sản phẩm từ phần mềm chỉnh sửa ảnh cho đến chương trình xử lý văn bản và bảng tính, và hầu hết là miễn phí. Miễn phí thực sự, không thủ đoạn gì hết. Google thực hiện theo cách mà bất kỳ công ty số hiện đại nào cũng nên làm: cho không thật nhiều sản phẩm để kiếm tiền từ một số ít.
Google kiếm được rất nhiều tiền từ quảng cáo trên một vài sản phẩm then chốt. Google luôn đặt câu hỏi về chất lượng chứ không phải về tiền. Miễn phí không chỉ là một bước đệm trên con đường đi đến một mô hình kinh doanh mà là cốt lõi trong triết lý sản phẩm của công ty.
Năm 1999-2001, Google phát minh ra cách tìm kiếm cho kết quả ngày càng tốt hơn. Cho phép khách hàng “tự phục vụ” bằng cách tự tạo ra các quảng cáo thích hợp, tạo ra vô số sản phẩm phục vụ, đưa ngày càng nhiều chức năng trước đây chạy trên máy để bàn lên “đám mây” (cloud). Đó là trung tâm dữ liệu của Google - một tòa nhà khổng lồ với hàng chục ngàn bảng mạch công nghệ kết hợp lại - xử lý, băng thông và lưu trữ. Ngày nay, ước tính Google có khoảng nửa triệu máy chủ trải trên hơn 36 trung tâm dữ liệu.
Chiến lược tối đa
Tại sao Google coi miễn phí là mặc định? Bởi vì, đó là cách tốt nhất để tiếp cận một thị trường lớn nhất có thể và được số đông chấp nhận. Schmidt gọi đó là “chiến lược tối đa” của Google.
Mỗi bài viết trên blog xuất hiện là chương trình quét của Google sẽ tạo chỉ mục để giúp Google xuất ra kết quả tìm kiếm tốt hơn. Đại đa số nhân viên của Google đang trăn trở tìm ra những sản phẩm mới để cho đi.
Google muốn thông tin được tự do bởi vì khi chi phí cho thông tin giảm xuống thì họ kiếm được nhiều tiền hơn.
CÁC MÔ HÌNH TRUYỀN THÔNG MỚI
Năm 1925 - buổi bình minh của ngành kinh doanh radio cho mục đích thương mại - là khởi đầu của văn hóa đại chúng thế kỷ XX. Chỉ có một vấn đề: không ai biết trả tiền cho những nội dung đó bằng cách nào, hoặc do những nhà sản xuất máy thu sóng radio trả tiền, hoặc khán thính giả phải đóng thuế hàng năm cho radio và TV họ sử dụng. Đã có một số gợi ý là quảng cáo là giải pháp.
Một vài thập kỷ sau, cả truyền thanh và truyền hình đều có những chương trình không thu phí và được tài trợ nhờ quảng cáo.
Quảng cáo vượt lên trên các phương tiện
Khi hình thành các trang báo in, chúng tôi không để những mẫu quảng cáo gần nội dung biên tập để tránh những xung đột tai hại giữa các câu chuyện hoặc yếu tố nghệ thuật, chúng tôi còn phải xây dựng lòng tin nơi độc giả. Google làm chính điều ngược lại, thành công của Google nhờ ở chỗ nó kết hợp quảng cáo với nội dung. Điều đó rõ ràng là bản chất của quảng cáo là khác biệt trên môi trường trực tuyến.
Đoạn kết của nội dung phải trả tiền
Mạng băng thông rộng là dạng “phát sóng” mới và các mạng truyền hình cáp giá cao giam hãm người xem ngày nay dường như đang tàn lụi. Đó là do thị hiếu của thế hệ mới và do xu thế công nghệ. Lý do dẫn đến việc giới kinh doanh chuyển sang mô hình miễn phí là:
1. Cung và cầu (cung tăng rất nhiều lần mà cầu thì không, số trang của Faceboook tăng nhiều hơn số trang của Times và chúng được tạo ra không hề với ý định thu tiền người đọc).
2. Không còn dạng cụ thể nữa.
3. Tiếp cận dễ dàng.
4. Bước chuyển sang nội dung do quảng cáo trả tiền.
5. Ngành kỹ nghệ máy tính mong muốn nội dung trở nên miễn phí.
6. Thế hệ miễn phí.
Đó là lý do tại sao các mô hình tài trợ bằng quảng cáo chiến thắng trong môi trường trực tuyến và là nguyên nhân làm chúng tiếp tục chiến thắng.
Chiến thắng của mô hình phương tiện truyền thống
Chúng ta coi “thông tin truyền thống” bao gồm phát thanh, truyền hình, tạp chí, báo và các trang web. Cách tốt nhất đo lường ảnh hưởng của nó đối với xã hội là thông qua thời gian người ta dành cho nó. Đo theo cách này, ít loại nào có thể sánh được với trò chơi trực tuyến.
Các loại hình thành công nhất:
1. Bán các món đồ ảo
2. Đăng ký thành viên
3. Quảng cáo
4. Bất động sản ảo
5. Hàng lưu niệm.
Sách miễn phí
Cũng giống như mọi thứ áp dụng mô hình miễn phí khác. Sách miễn phí không phải là không gây tranh cãi. Nhưng thị trường cho sách kỹ thuật số - sách nói, ebook và bản tải xuống từ web - đang phát triển nhanh chóng, phần nhiều để thỏa mãn nhu cầu mà sách in không làm được.
Đối với những sách về đề tài kinh doanh, sách miễn phí thường theo mô hình như nhạc miễn phí có tác dụng như tiếp thị cho bài nói chuyện hoặc phiên tư vấn với chi phí cao.
QUI MÔ CỦA NỀN KINH TẾ MIỄN PHÍ
Miễn phí đâu phải là tiền bạc
Bỏ qua việc sử dụng miễn phí như một mẹo tiếp thị, miễn phí bao trùm toàn bộ nền kinh tế. Hãy điểm qua một vài dạng miễn phí: Toàn bộ nội dung và dịch vụ trực tuyến và phi trực tuyến có quảng cáo tài trợ tại Hoa Kỳ ước từ 80 đến 100 tỷ dollar; loại hình một vài khách hàng có trả tiền trợ giá cho khách hàng miễn phí ước khoảng 800 triệu dollar vào 2008; thị trường trò chơi không thường xuyên có giá trị khoảng 3 tỷ dollar; nền kinh tế quà tặng không thể ước lượng giá chính xác... Tóm lại, miễn phí của một nền kinh tế quốc gia không hề nhỏ.
KINH TẾ HỌC MIỄN PHÍ VÀ THẾ GIỚI MIỄN PHÍ
Econ 000
Năm 1838, Antoine Cournot xuất bản quyền Rechers. Trong đó nói rằng, nếu một nhà máy sản xuất đĩa và một công ty khác cũng muốn mở ra nhà máy sản xuất đĩa thì hai công ty này sẽ điều chỉnh sản lượng để giữ giá bán càng cao càng tốt. Quyển sách của ông không được đánh giá cao.
Sau này Bertrand nhận định khác hơn, thay vì hạn chế sản lượng để tăng giá và lợi nhuận, các công ty sẽ giảm giá để tăng thị phần. Bertrand nói: “Trong một thị trường cạnh tranh, giá sẽ giảm xuống bằng với chi phí biên”.
Sau này các nhà kinh tế học mới kết luận rằng: các thị trường thừa thãi có thể dễ dàng tăng sản lượng, giá cả thường xuống bằng chi phí biên.
Nếu qui luật là “giá giảm xuống mức chi phí biên" thì miễn phí không còn là một phương án, nó là điều kết thúc không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, yếu tố quyết định giá cả không phải chỉ là chi phí biên mà là lợi ích biên”.
Độc quyền không còn như xưa nữa
Mô hình của Bertrand chỉ nhắm tới chi phí vật chất. Trong ngành sản xuất phần mềm và nhiều ngành khác nữa, giá trị của sản phẩm hầu hết nằm ở mặt trí tuệ và ngành công nghiệp này hưởng lợi từ cái gọi là “lợi nhuận gia tăng”. Chiến lược bóp chết cạnh tranh không còn hiệu quả như trước nữa, tệ sao chép đã trở nên phổ biến. Ở bất kỳ thị trường nào thì miễn phí luôn là điều hấp dẫn, nhưng kiếm được tiền từ miễn phí là vấn đề của tư duy, sáng tạo và thử nghiệm liên tục.
Miễn phí chỉ là một phiên bản khác
Ý tưởng cơ bản đằng sau việc tạo ra các phiên bản là bán sản phẩm giống nhau cho khách hàng khác nhau ở các mức giá khác nhau. Vào giờ vàng, người ta bán bia với giá rẻ hy vọng rằng một số khách hàng sẽ ngồi lại và tiếp tục uống khi bia được bán với giá bình thường.
Những kẻ bám càng không còn là mối bận tâm
Nếu hỏi liệu Wikipedia có sống sót được không? Người ta sẽ trả lời: “Không được, vì không có lợi nhuận. Ai cũng muốn hưởng mà không phải đóng góp. Họ sẽ dùng nếu nó có, những sẽ không ai tạo ra nó bởi vì vấn đề bám càng (xài chùa)”.
Trong môi trường trực tuyến, chỉ cần 1% người tham gia đóng góp, số đông người tiêu dùng thụ động chính là phần thưởng cho những người đóng góp, chứ không còn là vấn nạn. Số lượng độc giả khổng lồ là một trong những điều có sức thuyết phục nhất để một người quyết định trở thành biên tập viên cho Wikipedia.
CÁC KHU VỰC KINH TẾ PHI THỊ TRƯỜNG
“Mọi sự thừa thãi đều tạo ra một khan hiếm mới”. Chúng ta có khuynh hướng coi trọng những thứ chúng ta không thật dồi dào. Nhưng khát vọng của loài người sẽ ra sao nếu có thật nhiều bánh mì và dạ dày của hắn luôn được chèn chặt? Câu trả lời là “lập tức các nhu cầu khác (cao hơn) xuất hiện và chúng chế ngự cơ thể thay cho những cơn đói sinh lý”.
Một khi nỗi khát khao thông tin và giải trí cơ bản đã được thỏa mãn, người tiêu dùng thụ động biến thành người sản xuất chủ động.
Trong môi trường trực tuyến, sản phẩm được mã hóa thành phần mềm, mời gọi sử dụng miễn phí thì tiền bạc không còn là tín hiệu quan trọng nhất nữa. Thay vào đó, hai yếu tố phi tiền tệ nổi lên thế chỗ là “nền kinh tế của sự quan tâm” và “nền kinh tế của danh tiếng”. Điều gì định nghĩa một “nền kinh tế”? Khái niệm dùng hiện nay là “khoa học về lựa chọn trong điều kiện khan hiếm”.
Ngày nay khi bạn kết nối với ai đó qua blog của mình thực tế bạn đã cho họ một ít danh tiếng của mình, sự chuyển giao danh tiếng này làm hai bên giàu có hơn. Có một thị trường danh tiếng thực sự - đó là Google. Đơn vị tiền tệ của danh tiếng trên môi trường trực tuyến chính là số lượng kết nối đến trang web. Và còn gì đo lường mức độ quan tâm tốt hơn là chỉ số về độ tấp nập của web?
Nền kinh tế quà tặng
Kinh tế quà tặng trở nên sống động và có thể đo đếm được khi nó xuất hiện trên môi trường trực tuyến dưới hình thức các hành vi, điều ta làm cho người khác mà không yêu cầu được đền đáp. Nguyên nhân không hẳn do bản tính vị tha. Lòng vị kỷ được thấu triệt là động lực mạnh mẽ nhất của nhân loại. Người ta làm việc miễn phí có thể vì nhiều lý do: cho vui, có điều gì đó cần thể hiện, muốn được người khác quan tâm, để phát triển cá nhân, vì cộng đồng. Nghĩa là khi người ta cảm thấy là một phần của cộng đồng và muốn cống hiến cho sự tồn tại và phát triển của nó.
(ĐÔI KHI) LÃNG PHÍ LÀ HAY
Khi tự nhiên phung phí sự sống
Bộ não chúng ta dường như được lập trình để cưỡng lại lãng phí. Chúng ta quan tâm bảo vệ từng hậu duệ của mình, chúng ta áy náy với một món đồ chơi không thích hoặc thức ăn không dùng hết.
Tuy nhiên, phần còn lại của tự nhiên không như vậy. Một con cá ngừ đại dương có thể phát tán mười triệu trứng đã thụ tinh trong mùa đẻ trứng, có lẽ chỉ mười con sống đến lúc trưởng thành. Một triệu con chết mới có một con sống. Thiên nhiên phí phạm sự sống để có cuộc sống tốt hơn. Nguyên nhân tự nhiên lãng phí như vậy là vì chiến lược tàn sát là cách tốt nhất để làm điều mà các nhà toán học gọi là “khảo sát toàn bộ không gian tiềm năng”. Đó là cách chấp nhận lãng phí. Vứt đi quá nhiều có vẻ không hay, thậm chí quái lạ, nhưng đó là cách thích hợp để tận dụng sự thừa thãi.
Video về mèo cũng có chỗ của nó
Người ta thường kêu ca rằng Youtube không phải là mối đe dọa đối với truyền hình vì trên đó toàn những thứ “rác rưởi”. Rác rưởi hay không là trong con mắt của người xem. Tất cả các đoạn phim ngẫu nhiên trên Youtube chính là các hạt của hoa bồ công anh bay trong không gian và tìm kiếm một mảnh đất màu mỡ để đáp xuống. Theo cách nhìn đó, chúng ta đang “phung phí video” để tìm ra đoạn video tốt hơn, khám phá cái không gian tiềm tàng trong phim ảnh. Điều này dẫn đến sự khác biệt giữa lối tư duy về thừa thãi và khan hiếm.
Quản lý sự khan hiếm
Mô hình Youtube là hoàn toàn miễn phí, nhưng nó không làm ra tiền. Huhu thì cho xem miễn phí và bạn phải trả giá theo cách cổ điển khi xem các đoạn quảng cáo, dù bạn muốn hay không. Tuy nhiên, nó lại tạo ra doanh thu khá. Hai trường hợp này minh họa sự đối đầu giữa các mô hình miễn phí thực sự trăm phần trăm, nhưng chút khan hiếm giả tạo lại là cách làm ra tiền tốt nhất.
THẾ GIỚI MIỄN PHÍ
Trung Quốc là chốn miễn phí tung hoành
Trung Quốc là nơi vấn đề vi phạm tác quyền thắng thế. Hàng năm qua, các cuộc truy quét thiếu nhiệt tình dưới sức ép ngoại giao của phương Tây không có một ảnh hưởng nào rõ rệt đối với những người bán hàng trên phố hay một số trang web. Ở Trung Quốc, bạn có thể có được hầu hết những thứ mình muốn mà chẳng mất tiền.
Thay vì chống lại nạn vi phạm tác quyền, thế hệ nhạc sĩ mới của Trung Quốc chấp nhận nó, vi phạm tác quyền là hình thức tiếp thị miễn phí, nhờ nó mà họ nổi tiếng và họ chuyển sự nổi tiếng thành tiền thế nào tùy ý. Sản phẩm vi phạm tác quyền ước tính chiếm đến 95% mức tiêu thụ ở Trung Quốc.
Nền kinh tế của nước hoa Chanel nhái
Hàng nhái và vô số đồ công nghệ giả liệu nhan nhản trong các cửa hàng, đường phố Trung Quốc. Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ được miễn phí, bạn chỉ phải trả tiền (rất rẻ) cho các nguyên tử vật chất. Gốc rễ và hậu quả của việc vi phạm tác quyền lại sâu sắc hơn vẻ bề ngoài. Cái túi Gucci nhái vẫn thể hiện như một túi Gucci thật và nó hiện diện khắp nơi. Hệ quả có hai mặt: “tác động thay thế” - tiêu cực và “tác động kích thích” - tích cực. Người tiêu dùng hiểu rõ sự khác biệt giữa hàng thật và hàng nhái, và sẽ chọn hàng thật khi họ đủ tiền. Một phụ nữ trẻ nhận định: “Nếu bạn mặc thật nhiều hàng nhái hoặc có nhiều túi xách hàng giả, những người bạn của bạn sẽ biết, do đó bạn chẳng lừa được ai cả. Thế thì mua hàng thật còn hơn”.
Vi phạm tác quyền không hủy diệt thị trường, nó kích thích thị trường bùng nổ phục vụ làn sóng người tiêu dùng trung lưu đang xuất hiện. Hai sản phẩm, thật và giả, đơn giản là nhằm vào các phân khúc thị trường khác nhau.
Quyền lực của những người bán rong Brazil
Giống như ở Trung Quốc, trên các đường phố Brazil, những người bán hàng rong giới thiệu những đĩa CD không phải là hàng chính thức của một hãng đĩa nổi tiếng nào mà là những sản phẩm do nhóm họ sản xuất, tuy nhiên, lại hợp pháp.
Khi có buổi biểu diễn của một ca sĩ hoặc ban nhạc nổi tiếng nào đó đến địa phương, thì những người bán hàng rong là nhóm tiền trạm, tiếp thị, tổ chức, quảng cáo đầu tiên. Họ ghi hình, sản xuất đĩa CD, DVD bán ngay tại chỗ. Chín mươi phần trăm số ban nhạc không có hợp đồng ghi âm và cũng không đầu quân cho nhãn đĩa nào cả, họ không cần điều đó. Cho người khác nhạc của mình miễn phí tạo ra một ngành kinh doanh lớn đến mức mô hình thu phí không thể nào đạt được.
HÌNH DUNG VỀ THỪA THÃI
Mọi tác giả tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đều biết luật bất thành văn: bạn chỉ có thể phá vỡ những định luật vật lý một hoặc hai lần trong mỗi câu chuyện. Triết thuyết khoa học viễn tưởng là thứ mà nhà văn Clive Thompson gọi là “cứ điểm cuối cùng của triết lý”. Tình yêu sẽ thay đổi ra sao nếu chúng ta sống đến 500 tuổi? Nếu chúng ta có thể du hành trở về quá khứ để đảo ngược những quyết định trước đây, bạn có làm không? Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn đối đầu nói chuyện hoặc giết chết Thượng đế? Khi máy móc làm hết mọi việc, điều gì là động lực của chúng ta? Khan hiếm khi kết thúc sẽ làm chúng ta lười nhác, suy đồi, ngu ngốc và tầm thường.
Tôn giáo là lĩnh vực có những ví dụ vĩ đại nhất về các tình thế cực đoan do thừa thãi hoặc khan hiếm tạo ra. Thiên đường là hình ảnh tuyệt vời về thừa thãi: Thiên thần lướt trên những đám mây mịn màng, chơi đàn hạc và không màng đến nhu cầu về vật chất; người chết trở nên thanh khiết, huy hoàng và hoàn hảo; mọi khiếm khuyết về cơ thể được rũ bỏ… Phải chăng kết cuộc không thể tránh khỏi là khi khan hiếm biến mất thì động lực cũng bị triệt tiêu?
Về mặt kinh tế, thừa thãi là động lực cho đổi mới và tăng trưởng. Nhưng về mặt tâm lý, khan hiếm chính là thứ chúng ta thực sự thấu hiểu.
TIỀN NÀO CỦA NẤY
Những nghi ngờ về miễn phí
Mười bốn điều phản bác lại kinh tế dựa trên miễn phí thường nghe nhất:
1. Làm gì có bữa trưa miễn phí: Quan niệm này khẳng định một cá nhân hay một xã hội không thể nhận được thứ gì đó mà không phải trả tiền. Kinh tế học ít nhất ở dạng lý tưởng, tuân theo qui luật bảo toàn vật chất: có vào thì phải có ra.
2. Miễn phí luôn đi kèm với những chi phí ẩn/miễn phí là một trò lừa đảo. Miễn phí đôi khi có ràng buộc. Hình ảnh quảng cáo làm trong web trở nên bừa bộn, chúng ta bị mồi chài rồi trở thành khách hàng trả tiền. Thực tế: Miễn phí của thế kỷ XXI cũng tốt như thu phí, hoặc tốt hơn nữa: không lừa, không bẫy, không ràng buộc.
3. Internet không thực sự là miễn phí vì bạn phải trả phí truy cập. Đây là một nhầm lẫn phổ biến. Hàng tháng chúng ta phải trả một món tiền để truy cập internet. Thực tế, số tiền này trả cho hạ tầng truyền dẫn, nó chẳng liên quan gì đến những thứ được truyền đi trên hạ tầng đó.
4. Miễn phí chỉ là trò quảng cáo. Thực tế: Thị trường phần mềm dùng thử miễn phí và trả phí để dùng phiên bản hoàn chỉnh đã tồn tại hàng thập kỷ, không dựa vào quảng cáo.
5. Miễn phí nghĩa là phải chịu quảng cáo nhiều hơn, cũng có nghĩa là tính riêng tư giảm xuống. Thực tế, hầu hết các trang web do quảng cáo dẫn dắt đều có chính sách đảm bảo sự riêng tư, ngăn cấm chuyển thông tin về người sử dụng cho người đăng quảng cáo.
6. Không chi phí = vô giá trị. Người ta cho rằng tiền là cách duy nhất đo lường giá trị. Nhưng người ta dựng trang web chủ yếu dựa trên hai đơn vị phi tiền tệ là sự quan tâm và danh tiếng. Cả hai có được là nhờ các nội dung và dịch vụ miễn phí.
7. Miễn phí hủy hoại cách tân. Người ta cho rằng miễn phí vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, nên người ta sẽ chẳng muốn sáng tạo nếu chẳng được gì. Giai đoạn bảo hộ sáng chế kéo dài 17 năm. Nhưng khi thời kỳ bảo hộ đã qua, sản phẩm trí tuệ đó trở thành thứ miễn phí.
8. Đại dương cạn kiệt, nhà vệ sinh công cộng tởm lợm và trái đất nóng lên là cái giá thực sự của miễn phí. Trong thế giới của các bit thông tin, chi phí môi trường còn lâu mới là vấn đề quan trọng. Hoang phí về năng lượng xử lý, lưu trữ và băng thông về cơ bản sẽ qui về chi phí điện năng. Nhưng cuối cùng họ đã đặt các trung tâm dữ liệu gần nguồn năng lượng mặt trời, phong điện và địa nhiệt năng để đảm bảo không gây hậu quả môi trường như các nguyên tử vật chất phí phạm.
9. Miễn phí sẽ khuyến khích chuyện vi phạm bản quyền. Ngược lại, chính vi phạm bản quyền thúc đẩy miễn phí.
10. Miễn phí nuôi dưỡng một thế hệ không trân trọng bất cứ điều gì. Thực tế, giới trẻ có thể phân biệt được giữa thực và ảo, và chúng ứng xử khác biệt phù hợp trong từng hoàn cảnh.
11. Không thể địch lại miễn phí. Thực tế, chúng ta có thể dễ dàng cạnh tranh với miễn phí, đơn giản là đưa ra được sản phẩm tốt hơn hay chí ít là khác biệt so với phiên bản miễn phí.
12. Cho không sản phẩm của mình mà chẳng kiếm được tiền. Trường hợp Paulo Coelho, ông đưa tác phẩm nổi tiếng của mình lên dịch vụ trao đổi tập tin ngang hàng miễn phí như Bit Torrent. Nhờ vậy ông bán được rất nhiều sách .
13. Miễn phí chỉ tuyệt diệu nếu có ai đó đang trả tiền. Thực tế, người khác trả tiền, nhưng họ trả tiền cho phiên bản cao cấp so với phiên bản bạn nhận được miễn phí.
14. Miễn phí hy sinh chất lượng. Nếu nhà báo chuyên nghiệp chứng kiến công việc của mình biến mất thì họ phải sáng tạo lại chính mình một cách mạnh mẽ hơn, từ đó có thể xuất hiện nhiều nhà báo hơn chứ không phải ít đi vì khả năng tham gia làm báo đã mở rộng ra ngoài. Báo chí chuyên nghiệp sẽ chia sẻ sân chơi với loại hình báo chí như thú tiêu khiển.
KẾT
Năm 2001, thị trường chứng khoán sụp đổ. Một vài năm sau thị trường hồi phục và chúng ta nhìn lại, chúng ta ngạc nhiên phát hiện rằng trên thực tế không thể tìm thấy ảnh hưởng của sự sụp đổ ấy đối với sự phát triển của internet, nó còn vẫn tiếp tục vươn rộng giống hệt trước đây. Web vẫn có tầm quan trọng như dự báo của những người lạc quan nhất. Chỉ có điều nó mất nhiều thời gian hơn để đạt được tới tầm vóc mà thị trường chứng khoán tính toán. Từ góc nhìn của người tiêu dùng, miễn phí hấp dẫn hơn nhiều trong một nền kinh tế đi xuống.
Miễn phí vẫn có tác động lên tâm lý người dùng. Nhưng miễn phí không thôi chưa đủ. Nó cần phải được song hành với “trả tiền”. Tương tự như con dao cạo miễn phí của King Gillette chỉ có nghĩa kinh tế khi đi cùng với lưỡi dao đắt tiền. Các nhà kinh doanh trên web ngày nay cũng phải tạo ra không chỉ sản phẩm người ta ưa chuộng mà còn có cả sản phẩm người ta sẽ trả tiền để mua. Miễn phí có thể là mức giá tốt nhất, nhưng nó không thể là mức giá duy nhất.
Người tóm tắt: TRẦN PHÚ AN (nhuongquyenvietnam.com)

LẬP DI CHÚC THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ


LẬP DI CHÚC THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ


Chương XXIII - Thừa kế theo di chúc
Điều 646. Di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Điều 647. Người lập di chúc
1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Điều 648. Quyền của người lập di chúc
Người lập di chúc có các quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Điều 649. Hình thức của di chúc
Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình.
Điều 650. Di chúc bằng văn bản
Di chúc bằng văn bản bao gồm:
1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
3. Di chúc bằng văn bản có công chứng;
4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Điều 651. Di chúc miệng
1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
2. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ.
Điều 652. Di chúc hợp pháp
1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.
Điều 653. Nội dung của di chúc bằng văn bản
1. Di chúc phải ghi rõ:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản;
đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Điều 654. Người làm chứng cho việc lập di chúc
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
Điều 655. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 653 của Bộ luật này.
Điều 656. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 653 và Điều 654 của Bộ luật này.
Điều 657. Di chúc có công chứng hoặc chứng thực
Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc.
Điều 658. Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc;
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
Điều 659. Người không được công chứng, chứng thực di chúc
Công chứng viên, người có thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn không được công chứng, chứng thực đối với di chúc, nếu họ là:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;
3. Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
Điều 660. Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực
Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực bao gồm:
1. Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực;
2. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó;
3. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó;
4. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị;
5. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó;
6. Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.
Điều 661. Di chúc do công chứng viên lập tại chỗ ở
1. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc.
2. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng theo quy định tại Điều 658 của Bộ luật này.
Điều 662. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc
1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào.
2. Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị huỷ bỏ.
Điều 663. Di chúc chung của vợ, chồng
Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.
Điều 664. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng
1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.
Điều 665. Gửi giữ di chúc
1. Người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc.
2. Trong trường hợp cơ quan công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của pháp luật về công chứng.
3. Cá nhân giữ bản di chúc có các nghĩa vụ sau đây:
a) Giữ bí mật nội dung di chúc;
b) Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc;
c) Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của hai người làm chứng.
Điều 666. Di chúc bị thất lạc, hư hại
1. Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc.
Điều 667. Hiệu lực pháp luật của di chúc
1. Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.
2. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.
Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.
3. Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
4. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.
5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.
Điều 668. Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng
Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.
Điều 669. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
Điều 670. Di sản dùng vào việc thờ cúng
1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
Điều 671. Di tặng
1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
2. Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.
Điều 672. Công bố di chúc
1. Trong trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại cơ quan công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc.
2. Trong trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định nhưng người được chỉ định từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thoả thuận cử người công bố di chúc.
3. Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc.
4. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc.
5. Trong trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng.
Điều 673. Giải thích nội dung di chúc
Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật.
Trong trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực.

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Web Hosting Coupons