Trần Quốc Tuấn (1228 - 1300) là anh hùng dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại
trong lịch sử Việt Nam. Làm tướng, ông biết dẹp bỏ "thù nhà" dốc lòng
báo đền "nợ nước" góp công lớn ba lần đánh bại quân Nguyên. Ông còn
là tác giả của hai bộ binh thư và đặc biệt bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng
còn lưu truyền đến ngày nay. Sau khi ông mất, vua phong ông tước Hưng Đạo đại
vương, lập đền thờ ông ở Vạn Kiếp, Chí Linh (Hải Dương).
Tháng 12 năm Giáp Thân 1284, hiệu
Thiệu Bảo năm thứ 6, đời Trần Nhân Tông, đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi
Lăng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp.
Vua Nhân Tông thấy thế giặc mạnh,
cho mời Hưng Đạo Vương về Hải Dương mà phán rằng: "Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát,
nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân ?".
Hưng Đạo Vương tâu: "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức,
nhưng Tôn miếu Xã tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu
thần đi đã, rồi sau hãy hàng !!".
Vua Trần Nhân Tông nghe thế yên
lòng. Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 20 vạn quân Nam, và thảo bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn, thường gọi là
Hịch tướng sĩ để khuyên răn tướng
sĩ, đại ý khuyên binh sĩ học tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học tập
trận pháp theo sách Binh thư yếu lược, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên lần thứ 2.
Hịch tướng sĩ
Ta thường nghe:
Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu
thoát cho Cao Ðế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho cho Chiêu Vương; Dự
Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước.
Kính Ðức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung;
Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ
xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy
người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa,
sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?
Các ngươi vốn dòng võ tướng, không
hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng
tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người
thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem
thành Ðiếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn,
khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu! Cốt Ðãi Ngột Lang là người
thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn
lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến
cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh
ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại
nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm
thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự
lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của
kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về
sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm
vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da,
ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây
ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ
binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp
thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Ði thủy thì ta cho thuyền; đi bộ
thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng
nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá,
nào có kém gì?
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà
không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng
hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không
biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ
chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa
lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn
mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có
giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc;
mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi
tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm
không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt
ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy
giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của
ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia
quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã
tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác
bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn
rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng
bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được
chăng?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy
việc đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ làm nguy; nên lấy điều kiềng canh nóng mà thổi
rau nguội làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy
đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất
Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những
thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng;
chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi
sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các
ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến
các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề
mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các
ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp
thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách
này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách
này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta
là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục,
không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu
hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch
tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?
Cho nên ta viết bài hịch này để các
ngươi hiểu rõ bụng ta."
0 nhận xét:
Đăng nhận xét