GS Võ Tòng Xuân: Bỏ mặc nông dân mạnh ai nấy làm
LTS: Những ngày qua vấn đề thực trạng nền nông nghiệp VN đã thu hút nhiều sự quan tâm của dư luận và nhiều chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, thương mại… lên tiếng, chúng tôi xin đăng bài phân tích của GS.TS Võ Tòng Xuân về thực trạng nông nghiệp VN hiện nay và bàn một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền nông nghiệp.
(ĐVO) - "Nhà nước giao tất cả quyền hành xuất khẩu gạo cho một
Vinafood 2 - kiêm luôn Hiệp hội Lương thực VN lũng đoạn thị trường lúa gạo
trong nước. Họ không lo xây dựng thương hiệu gạo VN, mà lo cạnh tranh dìm giá
lúa thấp nhất để hưởng lợi, mặc cho nông dân... đem lúa cho vịt ăn", GS.
Võ Tòng Xuân viết.
Bài 1: Độc quyền ép giá nông dân
Tình trạng nông nghiệp VN hôm nay
thật không sáng sủa, nông dân tiếp tục là nạn nhân của tình trạng này. Có ý kiến
cho rằng phải để đời con của nông dân có trình độ học vấn cao hơn mới nhận thức
được vấn đề để hội nhập vào nền kinh tế thị trường. Nhưng thực ra, nông dân chỉ
là một trong 3 tác nhân đưa đến tình trạng nông nghiệp bi đát hiện nay: (1) Nhà
doanh nghiệp tiêu thụ nông sản; (2) Nhà nước chưa có chiến lược và chính sách cần
thiết; (3) Bản thân người nông dân chậm đổi mới trong thời đại hội nhập kinh tế
thế giới.
Thứ nhất, nhà doanh nghiệp
tiêu thụ nông sản, phần lớn các doanh nghiệp VN không được trang bị kiến thức
và kỷ năng kinh doanh nông sản, nên rất thụ động không biết tìm/mở thị trường
cho nông sản của mình, không khả năng tổ chức nghiên cứu chế biến nông sản thô
(nguyên liệu) thành sản phẩm có giá trị gia tăng có thương hiệu độc đáo để đưa
ra thị trường trong nước hoặc quốc tế.
GS.TS Võ Tòng Xuân. |
Không có những doanh nhân có kỹ
năng chuyên môn và có dũng khí để tổ chức được những vùng sản xuất liên hoàn từ
ứng dụng khoa học công nghệ, đến tổ chức nông dân sản xuất theo qui trình tiên
tiến (GAP), đến xử lý nguyên liệu, bảo quản và chế biến ra thành phẩm có thương
hiệu.
Cả doanh nghiệp và nhà nước đều bỏ
rơi nông dân, để mặc họ muốn trồng gì thì trồng, nuôi con gì thì nuôi. Đối nông
dân trồng lúa, khi thu hoạch họ lệ thuộc vào thương lái chứ ít có doanh nghiệp
nào trực tiếp mua nguyên liệu từ nông dân. Hàng trăm thương lái thu mua lúa với
chục giống lúa khác nhau bán lại cho doanh nghiệp chế biến thì làm sao doanh
nghiệp có gạo rặc một giống để bán được giá cao?
Thêm vào đó, máy móc thiết bị chế
biến chưa hiện đại nên doanh nghiệp khó có thể có sản phẩm có chất lượng cao,
nên giá sản phẩm bán ra thấp.
Trong khi đó doanh nghiệp “đầu nậu”
độc quyền xuất khẩu gạo không thương hiệu của Việt Nam - Vinafood 2 (Tổng công
ty Lương thực miền Nam) đi đấu thầu bán gạo cho nước ngoài đã cam tâm hạ thấp
giá gạo VN để dành trúng thầu (thí dụ điển hình Bangkok Post ngày 30/4/2013 đưa
tin VinaFood 2 trúng thầu với giá 459,75 USD/tấn gạo 25% tấm, rẻ hơn Thái Lan
108,25 USD/tấn cung cấp gạo cho Philippine từ tháng 7 đến 9/2013) thì nhóm độc
quyền này phải hạ giá lúa của nông dân thấp xuống mới mua cung cấp được cho
Philippine.
Đối với trái cây thì cũng tương tự
như thế, không doanh nghiệp nào tổ chức với nhà vườn để sản xuất, xử lý và bảo
quản trái cây tạo thêm giá trị gia tăng, mà chỉ có thương lái mua gom với giá rẻ
mạt mà thôi, không kể gì chất lượng hoa quả.
Thứ hai, Nhà nước chưa có
chiến lược và chính sách cần thiết, từ Chính phủ đến Bộ NN&PTNT và Bộ Công
thương dù có chính sách tự do mậu dịch, nhưng trong thực tế lại giao tất cả quyền
hành xuất khẩu gạo cho một Vinafood 2 - kiêm luôn Hiệp hội Lương thực VN lũng
đoạn thị trường lúa gạo trong nước. Họ không lo xây dựng thương hiệu gạo VN, mà
lo cạnh tranh dìm giá lúa thấp nhất để hưởng lợi, mặc cho nông dân “đem lúa cho
vịt ăn”.
Chính sách ruộng đất của nhà nước đặt
ra chủ yếu để duy trì hiện trạng sản xuất manh mún nhỏ lẻ, trong khi Luật Hợp
tác xã Nông nghiệp (HTXNN) hoàn toàn không khuyến khích gì cho nông dân gia nhập
Hợp tác như Nghị quyết TW 5, Khóa IX và Nghị quyết TW 26, Khóa X chỉ đạo về
kinh tế tập thể và hợp tác hóa nông nghiệp.
Ở Nhật bản, quốc gia có lực lượng
nông dân giàu ngang bằng các thành phần khác trong xã hội, Chính phủ dùng HTXNN
làm công cụ xóa nghèo cho nông dân, bằng cách bơm tiền tài trợ sản xuất cho
nông dân qua HTX của họ. Nếu chúng ta cũng có HTXNN đều khắp, mỗi khi nhà nước
muốn giúp nông dân tạm trử lúa thì chỉ rót tiền về HTX ứng trước tiền cho nông
dân chi xài, ai nấy giữ lúa của mình, đến khi giá lúa tốt hơn thì họ bán lúa lấy
tiền trả lại nợ cho nhà nước.
Nhưng việc đáng tiếc nhất là cho đến
nay nhà nước, cụ thể là Bộ NN&PTNT, hành động chỉ theo kiểu chắp vá, thấy
hư đâu sửa đấy, bị thương chỗ nào băng bó chỗ đấy, không có một chiến lược dài
hạn khả thi một cách đồng bộ có hệ thống. Chờ đến khi nào có bệnh dịch Bộ đề
nghị cứu trợ vài ngàn tỷ đồng; khi nông dân kêu ca bán lúa không được, Bộ đề
nghị cho doanh nghiệp vay không lãi để mua lúa tạm trử; thấy vài nơi có cánh đồng
mẫu lớn để bán thuốc, bán phân cho dễ thì Bộ cũng hô hào xây dựng cánh đồng mẫu
lớn; và bây giờ thì đang đề nghị “tái cơ cấu nông nghiệp” trồng cây khác thay
cho lúa.
Một chính sách nông nghiệp chỉ biết
có cây lúa đã ăn sâu vào xương tủy lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương nhỏ ở
nông thôn đã giúp mọi người phá rừng làm lúa, ngăn chận mọi mầm mống đa dạng
hóa, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, mãi cho đến năm 2000 mới nới lỏng
cho đa dạng hóa nhưng không cụ thể gì cả.
Một yếu kém nữa là trong thực tế mọi
chương trình phát triển nông nghiệp, Bộ NN&PTNT khuyến khích mạnh ai nấy
làm: anh khuyến nông thì hô hào trồng giống này, nuôi con kia mà không mua; anh
bán thuốc, bán phân thì lo hô hào nông dân mua dùng, và nông dân thì mạnh ai nấy
lo, trăm người trăm vẻ, khi thu hoạch thì có hàng chục giống, mặc sức cho hàng
trăm thương lái ép giá. Trong khi đó thì các công ty lương thực của nhà nước
thì lo o bế thương lái không đếm xỉa gì đến nông dân.
Và vì Bộ NN&PTNT cứ làm như thế
thì lúa cũng chịu thua, trái cây cũng chịu thua, cà phê cũng chịu thua, cá cũng
chịu thua, và do đó nông dân đành bó tay. Không nông sản nào có thương hiệu mạnh
được vì chúng đã được sản xuất một cách không đồng bộ, chuỗi giá trị sản xuất bị
tháo ra từng khoen không ráp lại được, mạnh anh này lợi dụng anh kia.
Phải chi chúng ta có tầm nhìn toàn
vẹn hơn, thấy sự phát triển theo hệ thống đồng bộ theo chuỗi giá trị từ giống
cây con cho đến thị trường trên bàn ăn của người tiêu dùng trong nước và thế giới.
Thí dụ, đối với mặt hàng gạo, chuỗi giá trị gắn liền giống lúa với đồng ruộng sản
xuất, nông dân gắn liền nhau trong HTXNN, cánh đồng mẫu lớn của HTX gắn với
doanh nghiệp chế biến gạo có thương hiệu được phân phối trong nước hay xuất khẩu.
Đối với mặt hàng trái cây, chuỗi
giá trị bắt đầu từ việc quy hoạch vùng trồng thích hợp với giống cây ăn trái đặc
biệt, mọi nông dân trồng cây ăn trái sẽ gắn liền với một trung tâm xử lý và bảo
quản trái cây, để khi thu hoạch họ sẽ đưa trái cây về trung tâm bảo quản đưa
nhiệt độ trái xuống 5 độ C trước khi đưa vào kho phân loại kích cỡ, đóng gói
bao bì và bảo quản ở 5 độ C chờ đến khi bán cho các siêu thị lúc có giá tốt.
Thứ ba, những bất cập
trong đời sống của nông dân một phần cũng do chính bản thân người nông dân tạo
nên. Nông dân ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, manh mún, thích sản xuất tự do, không
muốn hợp tác hóa.
Phần lớn bà con nông dân không được
học hành từ căn bản mà rất tự hào vì kinh nghiệm thực tế sản xuất của mình,
không thấy và hiểu được những cơ sở khoa học của từng lãnh vực sản xuất, cho
nên bà con nông dân làm theo ý mình và theo lời quảng cáo hơn là theo khoa học.
Do đó, họ phải tốn kém nhiều, đội
giá thành sản xuất lên cao nên không lời thỏa đáng, có khi bị lỗ.
Nếu nông dân chịu khó học hỏi để trở
thành nông dân kiểu mới thì họ sẽ sáng suốt hơn trong các quyết định sản xuất,
không xa rời HTXNN và chấp nhận thành viên trung thực, thực hiện theo qui trình
GAP một cách tự giác trong chuỗi giá trị sản xuất. Được như thế đời sống nông
gia sẽ đổi mới ngay.
GS.TS.
Nhà giáo Nhân dân Võ Tòng Xuân hiện là Hiệu trưởng trường ĐH Tân Tạo (Long An).
Ông sinh năm 1940 tại Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang, nguyên là Hiệu trưởng trường
ĐH An Giang.
GS.
Võ Tòng Xuân chuyên nghiên cứu về lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là lúa nước, với
nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu cây lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, cũng
như trong sự nghiệp giáo dục tại vùng này. Ông vinh dự đựơc nhà nước trao tặng
rất nhiều danh hiệu cao quý như Anh hùng Lao động (1985), Huân chương Lao động
hạng Nhất (1986), Nhà giáo Nhân dân (2000), Huy chương vì giai cấp Nông dân Việt
Nam (1994)…
GS. Võ Tòng Xuân (Đại học Tân Tạo,
Long An, ngày 10/7/2013)
Ghi chú: Bài này trên ĐVO hiện
nay đã bị gỡ xuống, nhưng hiện nay đã có rất nhiều trang Web đăng lại.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét