(VnExpress) - Báo cáo vừa được Ủy ban Kinh tế Quốc hội công bố
cho thấy tỷ lệ thuế - phí trên GDP ở Việt Nam cao gấp 1,4 - 3 lần so với các
nước trong khu vực.
Ủy ban Kinh tế Quốc hội
ngày 4/9 chính thức công bố Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 với tựa đề "Từ bất
ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu". Dài hơn 300 trang, bản báo cáo được
thực hiện trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và
giám sát chính sách kinh tế vĩ mô” do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì, với
sự tài trợ của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP).
Đây là
lần đầu tiên, Ủy ban Kinh tế Quốc hội xuất bản một ấn phẩm quy mô như vậy nhằm
cung cấp một bức tranh vừa tổng quát, vừa chi tiết về sức khỏe nền kinh tế tình
hình kinh tế. Và như mong muốn của Ban Quản lý dự án (do Chủ nhiệm Ủy ban
Nguyễn Văn Giàu làm Trưởng ban Chỉ đạo), báo cáo sẽ cung cấp tới đại
biểu Quốc hội và các nhà hoạch định chính sách một bức tranh toàn cảnh về tình
hình kinh tế của mỗi năm, đồng thời thông qua những phân tích chuyên sâu về
những vấn đề kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn và dài hạn sẽ góp phần nâng cao được
khả năng nhận biết các vấn đề và thay đổi một cách tích cực tư duy chính sách
của giới làm chính sách.
Báo cáo gồm 7 chương, trong đó dành hẳn một chương phân tích sâu
về rủi ro thâm hụt tài khóa. Theo các chuyên gia, kinh tế Việt Nam đang trải qua những năm tháng khó khăn nhất kể từ
khi bắt đầu đổi mới vào những năm đầu thập niên 1990. Tăng trưởng kinh tế liên tục
suy giảm, từ mức trên 8,2% trong giai đoạn 2004-2007, xuống còn xấp xỉ 6% trong
giai đoạn 2008-2011. Trong khi đó, tỉ lệ lạm
phát liên tục ở mức cao, thâm hụt thương mại trầm trọng, và đặc biệt là thâm hụt ngân sách cao và nợ
công tăng nhanh. Thâm hụt ngân sách trong
những năm gần đây lên tới xấp xỉ 5-6% GDP, trong khi đó nợ công và nợ công nước
ngoài lần lượt tăng nhanh lên mức 57% và 42% GDP vào cuối năm 2010.
Trong khi
nhu cầu chi tiếp tục gia tăng thì nguồn thu ngân sách có nhiều dấu hiệu bất ổn,
và quá lệ thuộc vào thuế, phí. Báo cáo của Ủy ban chỉ ra rằng, tỷ lệ thuế và phí ở Việt Nam vào hàng cao nhất khu vực vậy mà nguồn thu đang có
dấu hiệu kém bền vững này lại được sử dụng một cách chưa hợp lý.
Nước
|
Thuế phí / GDP
|
Ấn Độ
|
7,8%
|
Indonesia
|
12,1%
|
Malaysia
|
15,5%
|
Philippines
|
13%
|
Thái Lan
|
15,5%
|
Trung Quốc
|
17,3%
|
Việt Nam
|
21,6%
|
Dựa trên
các số liệu từ Bộ Tài chính, nhóm nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế nhận thấy thu
ngân sách của Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011 khá ổn định, khoảng 29% GDP. Trong
đó thu từ thuế - phí là 26,3%, trong đó thu từ dầu thô đang có xu hướng giảm.
Nếu loại trừ nguồn này, tỷ lệ thuế - phí so với GDP là 21,6%.
“Mức này
rất cao so các nước khác trong khu vực”, báo cáo nhận định. Cùng với những
thiệt thòi do lạm phát, Ủy ban Kinh tế cho rằng người Việt đang phải gánh
chịu tỷ lệ thuế phí cao từ 1,4 đến 3 lần so với những nước láng giềng.
Xét riêng
về thuế thu nhập, các chuyên gia nhận thấy Việt Nam có các thang bậc thuế suất
khá tương đồng so với các nước trong khu vực, song khoảng thu nhập chịu các
thang thuế suất tương ứng lại thấp, nên tính chung số thuế phải nộp là khá cao
so với khu vực. Ví dụ mức thu nhập phải chịu thuế 10% tại Việt Nam khoảng 3.450
- 5.175 USD một năm, thì ở Thái Lan là 4.900 - 16.400 USD, Trung Quốc là 3.800
- 9.500 USD một năm. Tương tự với thuế thu nhập doanh nghiệp hiện được thu ở
mức 25% đối với mọi doanh nghiệp, trong khi tại các nước, thuế suất dao động 2
- 30%. Đó là chưa kể đến các khoản thuế cao đánh vào tiêu dùng thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế nhập khẩu) cũng như các khoản chi phí không chính thức khác.
Theo báo
cáo, do thuế phí cao, khả năng tích lũy, đầu tư phát triển và nâng cao năng lực
cạnh tranh của khu vực tư nhân đã bị hạn chế đáng kể. Nó cũng khuyến khích các
hành vi gian lận về thuế như chuyển giá tại các doanh nghiệp FDI. Theo đó khu
vực này chiếm khoảng 20% GDP nhưng chỉ đóng góp trên dưới 10% thu ngân sách.
Một hệ
quả khác là nguồn thu ngân sách ngày càng trở nên kém bền vững. Việt Nam hiện
có 3 nguồn thu chính vào ngân sách là thuế giá trị gia tăng, thu nhập doanh
nghiệp và thuế xuất nhập khẩu - tiêu thụ đặc biệt. Do kinh tế khó khăn, nguồn
thu từ thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng giảm từ 36% (2006 - 2008) xuống
còn 28% trong giai đoạn 2009 - 2011, làm gia tăng sự phụ thuộc vào 2 nguồn còn
lại (tăng từ 10% năm 2006 lên 14,5% năm 2010). Điều này hoàn toàn không có lợi
khi Việt Nam đang phải gỡ bỏ dần các hàn rào thuế quan nêu trên trong những năm
tới theo cam kết WTO.
Một nguồn
thu khác cũng được báo cáo đề cập là từ bán nhà thuộc sở hữu nhà nước và
chuyển quyền sử dụng đất. “Tuy nhiên, về bản chất, việc làm này cũng giống như
việc một cá nhân bán tài sản đi để chi tiêu. Khoản vay nợ của anh ta có thể
giảm nhưng tài sản của anh ta cũng giảm tương ứng, tức là anh ta đã nghèo đi”,
nhóm nghiên cứu so sánh.
Đứng
trước thực tế này, báo cáo của Ủy ban Kinh tế
cho rằng nguyên nhân chính gây áp lực lên ngân sách chính là do áp lực chi tiêu
công quá lớn trong thời gian dài. Quy mô chi tiêu tối ưu được các chuyên gia khuyến cáo đối với
các nền kinh tế đang phát triển nằm trong khoảng 15-20% GDP. Số liệu so sánh
quốc tế của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng Hong Kong, Đài Loan (Trung
Quốc), Indonesia, Singapore và Ấn Độ đều có mức chi tiêu trong khoản 15-18%
GDP. Trong khi đó, từ nhiều năm qua Việt Nam đang nằm ở phía trên rất xa ngưỡng
tối ưu này, ở mức hơn 30% GDP. Con số này thậm chí còn cao hơn cả giai đoạn
cuối thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa (22% vào năm 1990).
Lo ngại
hơn, các nhà nghiên cứu chỉ ra răng trong tổng chi tiêu hiện tại, chi thường
xuyên chiếm tỷ trọng rất lớn, trong khi đầu tư phát triển lại có xu hướng giảm
(từ 36,8% năm 2003 xuống còn 24,6% trong năm 2011). “Điều này phần nào cho
thấy sự cồng kềnh và chi tiêu tốn kém của bộ máy công quyền”, báo cáo nhận định.
Về giải
pháp, các chuyên gia của Ủy ban Kinh tế đề xuất đặt mục tiêu chính của cải cách
tài khóa là điều chỉnh chi tiêu công, hệ thống thuế nhằm hướng tới một ngân
sách cân bằng và ổn định. Để làm được điều này, trước tiên, hạch toán ngân sách
phải được thực hiện một cách minh bạch theo chuẩn quốc tế. Các khoản chi để
ngoại bảng phải được tuyệt đối tránh, loại các khoản thu kém bền vững và thu từ
bán tài sản khỏi thước đo thâm hụt. Ngoài ra, các gánh nặng ngân sách phát sinh
trong tương lai, ví dụ như chi trả lương hưu hay bảo hiểm y tế, cũng cần được
đưa vào các dự báo về thâm hụt nhằm có được bức tranh chính xác hơn về triển
vọng tài khóa tương lại.
Bên cạnh
đó, báo cáo cũng khuyến cáo cơ quan quản lý sớm giảm được chi tiêu công và thu
hẹp vai trò của Nhà nước. Việc cắt giảm phải dựa trên việc đánh giá sàng lọc,
có thứ tự ưu tiên… Đối với doanh nghiệp Nhà nước - vốn tiêu tốn nhiều chi phí,
cũng cần có sự tách bạch giữa mục đích công ích thuần túy với những đơn vị kinh
doanh có lợi nhuận.
Cuối
cùng, hệ thống thuế cần được cải cách đảm bảo các tiêu chí tạo nguồn thu bền
vững, hiệu quả, công bằng và minh bạch. Gánh nặng thuế cần phải được điều chỉnh
giảm một cách hợp lý. Tuy nhiên, mức độ hợp lý này phụ thuộc rất nhiều vào quá
trình cắt giảm chi tiêu công. Gánh nặng thuế quá cao sẽ khiến cho hệ thống thuế
kém hiệu quả do nó khuyến khích việc trốn thuế và bóp méo sự phân bổ nguồn lực.
Hệ thống sắc thuế và phí cần được rà soát tránh sự chồng lấn lên nhau. Các sắc
thuế cần được điều chỉnh nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho người thu nhập thấp,
khuyến khích tiết kiệm, và hạn chế tiêu dùng, đặc biệt là hàng tiêu dùng xa xỉ
nhập khẩu.
Nhật Minh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét