Suy giãn tĩnh mạch chân hay còn gọi là suy giãn tĩnh mạch chi dưới hay
suy van tĩnh mạch chi dưới là thuật ngữ chỉ sự suy giảm chức năng đưa máu trở về
tim của hệ thống tĩnh mạch nằm ở vùng chân dẫn đến hiện tượng máu ứ đọng lại sẽ
gây ra những biến đổi về huyết động và biến dạng tổ chức mô xung quanh, gây ra
các triệu chứng như nhức mỏi, nặng chân, phù chân, tê dị cảm, kiến bò, vọp bẻ
(chuột rút) về ban đêm... có thể dẫn đến các biến chứng khó chữa như chàm da,
loét chân không lành (nhất là ở người già), chảy máu, giãn lớn các tĩnh mạnh
nông, viêm tĩnh mạch nông huyết khối, huyết khối tĩnh mạch sâu...
Hình
vẽ mô tả cơ chế suy giãn tĩnh mạch chân
|
Suy tĩnh mạch, theo lý thuyết có thể
xảy ra ở bất kỳ tĩnh mạch nào trên cơ thể. Kế cả ở tay, nhưng trên thực tế phần
lớn các trường hợp mắc phải đều xảy ra ở chi dưới tức chân do hệ thống tĩnh mạch
chi dưới dài hơn, phức tạp và nhất là chịu ảnh hưởng của trọng lực khi người bệnh
phải đứng nhiều. Trên thế giới, bệnh suy giãn tĩnh mạch chi dưới chiếm một tỉ lệ
đáng kể trên số dân, trong đó 70% là nữ. Ở Việt Nam có dự đoán bệnh sẽ gia tăng
gia tăng do sự phát triển của nền kinh tế và thay đổi nếp sống. Suy giãn tĩnh mạch
chân mạn tính thường ít nguy hiểm nhưng sẽ gây cho người mắc bệnh cảm giác khó
chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
Triệu chứng
Ở giai đoạn đầu, các triệu chứng
ban đầu của bệnh suy tĩnh mạch chi dưới cũng thường mờ nhạt và thoáng qua, người
bệnh thường có biểu hiện: đau chân, nặng chân, mỏi chân, phù nhẹ khi đứng lâu
ngồi nhiều, vọp bẻ, chuột rút vào buổi tối, châm chích, dị cảm như kiến bò vùng
cẳng chân về đêm. Những triệu chứng này thường không rõ ràng nên người bệnh ít
chú ý và dễ bỏ qua.
Giai đoạn tiến triển bệnh sẽ gây
phù chân, có thể phù ở mắt cá hay bàn chân, đôi khi người bệnh chỉ có cảm giác
mang giày dép chật hơn bình thường. Vùng cẳng chân xuất hiện chàm da, thay đổi
màu sắc da do máu ứ ở tĩnh mạch lâu ngày làm rối loạn biến dưỡng. Các tĩnh mạch
trương phồng lên gây cảm giác nặng, đau nhức chân, máu thoát ra ngoài mạch gây
phù chân, nặng hơn thì có thể thấy các búi tĩnh mạch trương phồng nổi rõ trên
da, các mảng bầm máu trên da...
Gây loét da cẳng chân. Lúc đầu loét
chân có thể tự lành, sau đó bệnh tiếp tục tiến triển, các vết loét không tự
lành mà có nguy cơ nhiễm trùng, điều trị rất phức tạp. Ngoài các dấu hiệu trên,
những tĩnh mạch nông dưới da ở cẳng chân và đùi giãn to ngoằn ngoèo. Giai đoạn
đầu chỉ thấy tĩnh mạch nổi li ti, nhất là ở cổ chân và bàn chân. Lâu ngày, các
tĩnh mạch này giãn to, có khi giãn hơn 10mm.
Nhìn chung, biểu hiện lâm sàng của
bệnh nhân giãn tĩnh mạch có thể thay đổi và nhiều bệnh nhân có thể không có hay
biểu hiện triệu chứng rất ít. Các triệu chứng biểu hiện chưa rõ tại chỗ tĩnh mạch
giãn như đau ngứa hay cảm giác nóng bỏng. Triệu chứng ở chân bị giãn tĩnh mạch
như đau chân, mỏi chân, sưng chân. Nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới do chịu ảnh
hưởng của nội tiết. Các triệu chứng thường nặng lên khi về cuối ngày, đặc biệt
là sau khi đứng lâu.
Nếu bệnh nhân có các triệu chứng của
suy tĩnh mạch chân, nên đến khám và theo dõi tại các phòng khám chuyên khoa tim
- mạch máu để được hướng dẫn chẩn đoán và điều trị cụ thể. Đặc biệt nếu thấy
chân sưng nhanh và đau nhiều, hoặc thấy khó thở, đau ngực đột ngột phải đến bệnh
viện khám ngay vì đó có thể là biểu hiện của tắc tĩnh mạch chân hoặc động mạch
phổi, là những biến chứng nguy hiểm của suy van tĩnh mạch.
Nguyên nhân
Nguyên nhân của bệnh suy giãn tĩnh
mạch chân mạn tính chưa được xác định rõ ràng. Tuy nhiên, đã xác định bệnh liên
quan đến một số yếu tố nguy cơ suy giãn tĩnh mạch chân gây ra do tổn thương chức
năng các van một chiều của hệ tĩnh mạch ngoại biên. Các van này bị tổn thương
là do:
- Quá trình thoái hóa do tuổi tác
(thường gặp ở người già). Tuổi thọ con người ngày càng cao sẽ kéo theo những bệnh
của quá trình tích tuổi trong đó có suy tĩnh mạch...
- Do tư thế sinh hoạt hay làm việc
phải đứng hay ngồi một chỗ lâu, ít vận động, phải mang vác nặng... tạo điều kiện
cho máu bị dồn xuống hai chân, làm tăng áp lực trong các tĩnh mạch ở chân, lâu
ngày sẽ gây tổn thương các van tĩnh mạch một chiều. Khi các van này bị suy yếu
sẽ giảm khả năng ngăn chặn luồng máu chảy ngược xuống dưới do tác dụng của trọng
lực, dẫn đến ứ máu ở hai chân.
- Các yếu tố nguy cơ như: chế độ
làm việc (phải đứng nhiều, làm việc trong môi trường ẩm thấp), béo phì, chế độ
ăn ít chất xơ và vitamin.
Hậu quả
Suy giãn tĩnh mạch chân không nguy
hiểm đến tính mạng, chỉ gây khó chịu, đau đớn và mất thẩm mỹ, cản trở sinh hoạt.
Tuy nhiên biến chứng của bệnh này là sự hình thành các cục máu đông trong lòng
tĩnh mạch, các cục máu này có thể gây tắc mạch máu tại chỗ hoặc di chuyển theo
dòng máu và gây tắc mạch chỗ khác, trong đó nguy hiểm nhất là tắc mạch phổi, có
thể dẫn đến suy hô hấp và tử vong.
Có đến 77,6% các bệnh nhân không biết
mình mắc bệnh. Ngoài ra, họ còn ngại đi khám, không điều trị hoặc điều trị
không đúng. Điều này dẫn đến những hậu quả rất khó lường, thậm chí có thể dẫn đến
tử vong. Có ba biến chứng mà người mắc bệnh suy và giãn tĩnh mạch chân có thể gặp
phải nếu không được điều trị đúng cách, là huyết khối (máu đông), xuất huyết
(chảy máu) và loét chân.
Các tĩnh mạch giãn to nếu không được
lấy bỏ sẽ có nguy cơ tạo lập cục máu đông, gây viêm tĩnh mạch nông huyết khối.
Các cục máu đông tạo lập trong lòng mạch có thể bong ra, theo dòng máu trôi ngược
lên phổi, làm tắc mạch phổi, nguy cơ tử vong cao. Các tĩnh mạch giãn to dần đến
một lúc nào đó sẽ bị vỡ khi chấn thương hay va chạm nhẹ, gây xuất huyết, bầm
máu. Sự rối loạn biến dưỡng da ở cẳng chân lâu ngày sẽ dẫn đến chàm, tăng sắc tố
da và loét chân do ứ đọng. Tình trạng loét chân do tĩnh mạch là một biến chứng
rất khó điều trị.
Phòng trị
Suy giãn tĩnh mạch là bệnh lý mang
tính xã hội, liên quan nhiều đến chế độ ăn uống và làm việc. Vì vậy khuyến cao
chung là nên tránh đứng lâu, ngồi nhiều, nhất là nhân viên văn phòng, không nên
ngồi làm việc một chỗ liên tục trong suốt buổi làm việc, tranh thủ giải lao vài
phút trong khoảng thời gian làm việc từ 30-60 phút. Trong lúc ngồi làm việc, có
thể phối hợp các bài tập vận động chân để máu lưu thông tốt. Ăn nhiều rau quả,
chất xơ, vitamin. Nên tập thể dục để giảm cân như: đi bộ với tốc độ nhanh, bơi lội,
đi xe đạp, tập dưỡng sinh.
Để làm chậm tiến triển của bệnh, cần
loại bỏ những thói quen có hại là đứng, ngồi lâu, khiêng vác nặng... Nếu bệnh ở
giai đoạn nhẹ, có thể điều trị làm giảm triệu chứng bằng các thuốc tăng trương
lực tĩnh mạch, phối hợp với mang vớ thun (vớ tĩnh mạch) tạo áp lực ngăn máu chảy
ngược (bas contention). Nếu bệnh ở giai đoạn nặng gây đau nhiều và nổi nhiều
búi mạch, có thể phải cần đến phương pháp phẫu thuật lấy bỏ bớt một vài tĩnh mạch
ở chân.
Đối với người làm công tác văn
phòng, đánh máy phải ngồi nhiều nên tránh ngồi liên tục bất động suốt 8h làm việc
vì như thế sẽ không tốt cho bệnh suy tĩnh mạch mạn tính, cũng như bệnh mạch
vành. Nên tranh thủ đi lại giải lao khoảng 30-60 phút/lần. Trong lúc ngồi làm
việc, có thể phối hợp tập các bài tập vận động chân như: co duỗi các ngón chân,
gập duỗi cổ chân, nhón gót... để máu lưu chuyển tốt hơn. Tập thể dục bằng cách
đi bộ nhanh, vừa đi vừa nghỉ, gác chân cao cũng tốt cho bệnh tĩnh mạch. Bổ sung
đủ bằng chế độ ăn giàu trái cây rau tươi.
Đi bộ là phương pháp tập luyện quan
trọng. Tuy nhiên trong bệnh suy tĩnh mạch chi dưới, đi bộ không phải là giải
pháp tối ưu nhất, và nếu đi bộ không đúng cách cũng có thể làm bệnh nặng thêm.
Nên đi bộ ít hơn, không đi quá xa, phải đi bộ với vận tốc nhanh, tránh đi liên
tục mà nên vừa đi vừa nghỉ, ngối gác chân cao. Nếu đã suy tĩnh mạch nhiều, phải
mang vớ trong khi đi bộ. Nếu có điều kiện, bơi lội là môn hể thao thích hợp nhất
cho bệnh lý này.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét