(TuanVietnam.net) - Không tìm thấy bất cứ một điều khoản nào của luật
do Quốc hội ban hành qui định người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ
giới (ô tô, xe máy, ...) khi xe được mua bán, cho, tặng.
Hiến pháp và pháp luật nước ta thừa nhận quyền sở hữu của nhân nhân đối với tài sản của mình, nhưng không có bất cứ một luật nào do Quốc hội ban hành (như Bộ Luật Dân sự, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Giao thông đường bộ, Bộ Luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ... ) bắt buộc người dân phải thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu đối với một loại tài sản nào đó của mình.
Không tìm thấy ở đâu
Đó là chưa kể, có loại
tài sản, luật còn qui định rõ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu khi dân có yêu cầu. Chẳng hạn, Luật Nhà ở (khoản
1 Điều 9) qui định "trường hợp chủ sở
hữu nhà ở có yêu cầu thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền
sở hữu đối với nhà ở cho họ".
Tuy nhiên, có một số
loại tài sản tuy luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc phải đăng ký quyền sở
hữu, nhưng muốn thực hiện một số hành vi nhất định, hay thực hiện một số giao dịch
dân sự nhất định liên quan đến tài sản, luật qui định phải đăng ký quyền sở hữu
trước khi thực hiện hành vi đó hay thực hiện giao dịch đó.
Chẳng hạn: Dân xây
nhà hay mua một ngôi nhà không bị luật bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu,
nhưng muốn đem bán ngôi nhà đã xây, đã mua đó thì phải đăng ký quyền sở hữu trước
khi bán. Tàu biển không bị luật buộc phải đang ký quyền sở hữu, nhưng muốn neo
đậu, đi lại trên biển, phải đăng ký quyền sở hữu.
Phương tiện giao
thông thủy nội địa không bị luật buộc phải đăng ký quyền sở hữu nhưng muốn hoạt
động, Luật Giao thông đường thủy nội địa qui định phải đăng ký quyền sở hữu.
Và nếu đã sang tên đổi
chủ thì phải thực hiện đăng ký lại chủ sở hữu. Máy bay, cảng hàng không không
buộc phải đăng ký quyền sở hữu nhưng muốn đưa vào khai thác thì Luật Hàng không
dân dụng Việt Nam qui định phải đăng ký quyền sở hữu...,
Cũng vậy, không tìm
thấy bất cứ một điều khoản nào của luật do Quốc hội ban hành qui định người dân
phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới (ô tô, xe máy, ...) khi xe được
mua bán, cho, tặng.
Luật Giao thông đường
bộ, tại điểm a khoản 2 Điều 58, qui định người lái xe khi điều khiển phương tiện
"phải
mang theo đăng ký xe", không đồng nghĩa là qui định bắt buộc người
dân phải thực hiện đăng ký quyền sở hữu khi xe được mua bán, cho, tặng.
Đành rằng, để có được
bản "đăng ký xe", người dân
phải mang xe đi đăng ký. Bản "đăng
ký xe" chỉ là điều kiện cho xe được tham gia giao thông. Muốn thỏa mãn
điều kiện này, dân phải đăng ký quyền sở hữu cho xe. Nhưng việc dân có làm việc
này hay không là do dân tự quyết định chứ Luật Giao thông đường bộ nói
riêng, luật do Quốc hội ban hành nói
chung không bắt buộc.
Tiện đây xin lưu ý
thêm, khoản 2 Điều 58 nêu trên không bắt buộc người lái xe phải là người có tên
trong "đăng ký xe". Điều
này có nghĩa là Luật Giao thông đường bộ chỉ bắt buộc xe cơ giới muốn tham gia
giao thông chỉ cần có bản "đăng ký
xe" đi kèm mà không lệ thuộc vào người đứng tên trong "đăng ký xe". Và do đó, muốn
tham gia giao thông, xe chỉ cần một lần đăng ký, hay nói cách khác là chỉ cần
đăng ký lần đầu, để xe có được bản "đăng
ký xe" đi kèm.
Và không đúng thẩm quyền
Và, cũng không tìm thấy
bất cứ một qui định nào trong những luật do Quốc hội ban hành (như Luật Tổ chức
Chính phủ, Luật Công an nhân dân, Luật Giao thông đường bộ,...) có trao quyền
cho Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ được đặt ra qui định này. Đó là bắt buộc
người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản này hay kia của mình nói
chung, đối với tài sản là xe cơ giới nói riêng.
a) Bởi vậy, việc đặt
ra qui định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới như
tại Điều 6 Thông tư số 36/2010/TT-BCA ngày 12/10/2010 của Bộ Công an qui định về
đăng ký xe là không đúng thẩm quyền.
Bộ Công an chỉ có quyền,
có trách nhiệm qui định về thủ tục đăng ký xe cơ giới. Còn dân có đi đăng ký xe
hay không là thuộc quyền lựa chọn của dân. Dân muốn có bản "đăng ký
xe" thì dân phải đi đăng ký xe.
b) Chiểu theo qui định
tại khoản 2 Điều 1 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật rằng, văn bản do cơ
quan Nhà nước ban hành không đúng thẩm quyền, không phải là văn bản qui phạm
pháp luật thì qui định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe
cơ giới tại Thông tư 36/2010/TT-BCA nêu trên không được coi là một qui định của
pháp luật. Vì nó không đúng thẩm quyền như đã nêu ở điểm (a) trên đây.
c) Theo qui định tại
Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng như tại khoản 1 Điều 2 Luật xử
lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi hành, rằng hành vi vi phạm hành chính
trước hết phải là hành vi vi phạm qui định của pháp luật, thì việc người dân
không đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới không phải là hành vi vi phạm
hành chính.
Vì nó không phải là
hành vi vi phạm qui định của pháp luật do qui định bắt buộc người dân phải đăng
ký quyền sở hữu xe cơ giới của Bộ Công an, không phải là một qui định của pháp
luật như đã nêu ở Điểm (b) trên đây.
Theo khoản 2 Điều 3
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng như theo điểm d khoản 1 Điều 3 Luật xử
lý vi phạm hành chính rằng người dân chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có
vi phạm hành chính, thì việc cơ quan chức năng xử phạt người dân do họ không thực
hiện đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới là sự vi phạm Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính, cũng như vi phạm Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực
thi hành.
Vì việc không đăng ký
quyền sở hữu đối với xe cơ giới không phải là một hành vi vi phạm hành chính
như đã nêu ở điểm (c) trên đây.
Nói một cách khác, việc
Điều 33 Nghị định 34/2010/NDD-CP (được sửa đổi bởi Nghị định 71/2012/NĐ-CP) của
Chính phủ đặt ra qui định xử phạt người dân về việc người dân không chuyển quyền
sở hữu ô tô, xe máy theo qui định; hay nói nôm na là không thực hiện sang tên,
đổi chủ khi mua bán, cho, tặng ô tô, xe máy là vi phạm Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính. Cũng như vi phạm Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi
hành.
Nên qui định này cần
phải được đình chỉ việc thi hành, hủy bỏ hay bãi bỏ theo qui định tại những điều
khoản có liên quan của Chương XI Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật.
Chiểu theo Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính cũng như Luật Xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực,
Chính phủ chỉ có quyền qui định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
không mang theo "đăng ký xe" khi xe tham gia giao thông mà không có
quyền qui định xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi không đăng ký quyền sở hữu xe.
Về phía người dân, dù
luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu
khi mua xe hay khi được cho, tặng, thừa kế, nhưng người dân hãy nên thực hiện
việc này để mình có thể thực hiện được đầy đủ các quyền của mình đối với tài sản.
Chẳng hạn như, nếu xe
không chính chủ thì không thể đem xe làm đảm bảo cho các giao dịch dân sự;
không thể đem cầm cố, thế chấp để vay tiền ngân hàng. Đặc biệt, để pháp luật bảo
hộ quyền sở hữu, nhất là đối với những xe có giá trị lớn.
Đối với người bán,
cho, tặng xe đã đăng ký quyền sở hữu theo tên mình, vì Luật Giao thông đường bộ
có những qui định, như khoản 5 Điều 4, khoản 4, 5, 10, 13, 14, 16, 22, 23 Điều
8, khiến người có tên trong "đăng ký xe" có thể rơi vào phiền toái,
rơi vào trách nhiệm pháp lý, thậm trí là trách nhiệm hình sự khi có vi phạm qui
định của pháp luật về xe, về người lái xe.
Thì để tránh điều
này, người bán, cho, tặng xe hãy buộc người mua xe, người được cho, được tặng
xe thực hiện ngay việc đăng ký quyền sở hữu để mình hết trách nhiệm. Vì, khi
không chứng minh được việc xe đã được bán, cho, tặng thì người có tên trong
"đăng ký xe" vẫn là chủ sở hữu của chiếc xe.
(Về phía người dân, dù luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc người
dân phải đăng ký quyền sở hữu khi mua xe hay khi được cho, tặng, thừa kế, nhưng
người dân hãy nên thực hiện việc này để mình có thể thực hiện được đầy đủ các
quyền của mình đối với tài sản).
Hồ Sỹ Thụy
0 nhận xét:
Đăng nhận xét