Đường vô xứ Nghệ...
Đường
vô xứ Nghệ quanh quanh
Non
xanh nước biếc như tranh họa đồ
Xứ Nghệ bao gồm Nghệ An và Hà Tĩnh.
Đường vô xứ Nghệ thật đẹp - cảnh sắc thiên nhiên hòa với sự mến khách - nghĩa
tình - lòng người. Mỗi người con của xứ Nghệ xa quê nay trở về, lòng ai cũng
nao nao khó tả. Mỗi du khách chưa một lần vô xứ Nghệ, nay có dịp nghĩ suy,
chiêm ngưỡng, cảm xúc dâng trào.
Đường vô Xứ Nghệ |
Thời Bắc thuộc, Nghệ An và Hà Tĩnh
có cái tên chung là Hoan Châu; đời Lý - Trần là Nghệ An châu; năm 1490 đời vua
Lê Thánh Tông, vùng đất này được gọi chung là xứ Nghệ. Năm 1831, vua Minh Mạng
chia xứ Nghệ thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Sau đó sáp nhập gọi là An Tĩnh, rồi
lại chia tách. Năm 1976, đất nước thống nhất, Nghệ An và Hà Tĩnh một lần nữa
sáp nhập thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Năm 1991, Nghệ Tĩnh lại chia tách thành Hà Tĩnh
và Nghệ An. Dù tách hay nhập - trải qua nhiều thời kỳ, hàng trăm năm nay, cốt
cách - văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán Hà Tĩnh - Nghệ An vẫn là một xứ Nghệ
“Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”; vùng đất của cá gỗ, áo tơi, một xứ Nghệ
“quê choa” có kẹo cu đơ, nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn; nồi đất kho cá, cơm
niêu chở đầy đường cái quan, để rồi “Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh”, “Nghệ An Xô viết
vẫn là Nghệ An”!
Phía Đông là “nước biếc”, đại dương
bao la; phía Tây là “non xanh”, núi rừng trùng điệp. Nhiều đoạn núi hình vòng
cung lan tận biển, tạo nên những danh lam thắng cảnh đẹp mê hồn. Địa linh nhân
kiệt – vùng đất của những người con hiền tài. Dân Nghệ dù bám trụ hoặc ra đi, ở
bất cứ phương trời nào cũng rất nghĩa tình, thông minh, cần cù, chịu thương chịu
khó. Xứ Nghệ, do hoàn cảnh khách quan đã tạo nên cái sự “gàn” trong tính cách của
con người nơi đây. Người xứ Nghệ bám trụ đến cùng với cái nơi “thiên không thời,
địa không lợi” - đất cằn đá sỏi, chưa mưa đã lụt, chưa nắng đã hạn, không cam
chịu nghèo khó, gắng học hành đỗ đạt, góp sức mình dựng xây quê hương, đất nước!
Người ta nói, thời nào cũng vậy,
dân Nghệ học giỏi, đỗ đạt cao, làm quan to, giữ nhiều trọng trách trong chính
quyền. Dân Nghệ “học gạo”, học để mà đi, mà thoát thân. Chuyện cậu học trò
nghèo ăn cơm cá gỗ, cũng là chuyện “học gạo” mà nên. Dân Nghệ trụ lại nơi “chôn
nhau cắt rốn” hơn 4 triệu người; dân Nghệ tỏa muôn phương lập nghiệp cũng bằng
phân nửa, vị chi cũng là 6-7 triệu, chứ có ít ỏi gì đâu. Ở TP Đà Lạt, từ năm
1920 đã có hẳn một làng cả mấy trăm nhân khẩu, trăm phần trăm là dân Đức Thọ.
Nhà báo Nghiêm Sỹ Thái, công dân làng Nghệ xứ hoa đào tự hào: “Làng do quan đại
thần triều đình Huế Phạm Khắc Hòe và cụ Nghiêm Trang lập ra, tồn tại hơn 9 thập
niên mà vẫn rất Nghệ, cốt cách Nghệ”!
Các vùng miền khác trên cả nước, ở
Bắc Mỹ và châu Âu, châu Á cũng hình thành nhiều làng xã, khu phố Nghệ tương tự.
Ra đi, lập nghiệp, lập thân nơi xứ người, sự cố kết - tương thân tương ái tạo
nên sức mạnh để người xứ Nghệ có cơ hội là phất lên thành triệu phú, tỷ phú. Giáo
sư, tiến sĩ, các nhà khoa học đầu ngành người xứ Nghệ cũng không ít, họ xa quê
để cống hiến cho đất nước, để... thoát nghèo và làm rạng danh một vùng quê giàu
truyền thống cách mạng, hiếu học.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét