NAM HẢI BÔ THẦN CA - (Từ Nhật Bản
kí hồi Thống sứ phủ) - (1906)
Á Tế Á[1] năm châu là
bậc nhất,
Người nhiều hơn mà đất
cũng rộng hơn.
Cuộc đời mở hội doanh
hoàn,
Anh hùng bốn bể giang
san một nhà.
Gẫm từ thuở Âu La[2]
tìm đất,
Vượt Chi Na qua Nhật
đến Triều Tiên.
Xiêm La, Ấn Độ gần liền,
Cao Miên, Đại Việt
thông miền Ai Lao.
Thịt một miếng trăm
dao xâu xé,
Chiếc kim âu chẳng mẻ
cũng khôn lành.
Tôi con Pháp, tớ thầy
Anh,
Nín hơi Đại Đức, nép
mình cường Nga.
Gương Ấn Độ còn xa
đâu đó,
Chẳng máu đào, nhưng
cũng họ da vàng
Mênh mông một dải
Đông Dương,
Nước non quanh quất
trông càng thêm đau.
Cờ tự lập đứng đầu phất
trước,
Nhật Bản kia vốn nước
đồng văn,
Thái Đông nổi hiệu
duy tân,
Nhật Hoàng là đấng
anh quân ai bì?
Dòng Thần Vũ riêng về
một họ,
Vùng Phù Tang soi tỏ
góc trời,
Kể đời trăm hai mươi
hai,
Năm hai nghìn lẻ năm
mươi có thừa[3].
Sẵn cơ hội trời đưa lại
đó,
Chốn kinh thành Thần
Hộ[4] mới dời sang.
Dẹp Mạc Phủ, bỏ phiên
bang,
Đổi dòng chính sóc,
thay đường y quan.
Khắp trong nước dân
đoàn xã hội,
Nhà học đường đã ngoại
ba muôn.
Việc kĩ nghệ, việc
bán buôn,
Nơi lò hấp bát, nơi
khuôn đúc đồng.
Chè, lụa, tơ, gai,
bông, nhung, vũ,
Mọi đồ sơn, vân mẫu,
pha lê.
Dao với quạt, tán với
xe,
Đủ mùi hải lục, hợp
nghề nông thương.
Bốn lăm triệu kể
lương dân số,
Các sắc quân ước độ
triệu người.
Chu vi mặt đất rộng
dài,
Tính vuông Pháp lí bốn
mươi vạn thừa.
Bốn mốt huyện năm xưa
mới đổi,
Đầu Nại Xuyên mà cuối
Lộc Nhi.
Đông Kinh ba phủ cận
kì,
Ngoài thì Đại Bản,
trong thì kinh đô.
Tỉnh Bắc Hải dư đồ
quanh bể,
Huyện Xung Thằng chưa
kể đất Lưu Cầu[5].
Gò Đối Mã bốn bể sâu,
Nghiêm Đồng đặt súng,
Trúc Phu đỗ tàu.
Nhà dây thép đâu đâu
cũng đặt,
Truyền thông thương
khắp mặt ngoại dương.
Kìa thiết lộ, nọ ngân
hàng,
Đăng đàn, báo quán,
ngổn ngang phụ đầu[6].
Cuộc biến pháp năm đầu
Minh Trị,
Ba mươi năm dân trí mở
mang,
Chữ Hán tự, chữ Tây
dương,
Mọi bài diễn thuyết,
các phường chuyên môn.
Đất Đại Bản mở đồn
đúc súng,
Xưởng Đông Kinh riêng
cũng một toà.
Trường Kì thuyền cục
mấy nhà,
Dã Tân, Tu Hạ ấy là hải
quân.
Tàu với súng trăm phần
chấn chỉnh,
Lại ngư lôi bác
đĩnh[7] ai tày.
Quan quân luyện tập
đêm ngày,
Mọi nghề so với Thái
Tây kém gì.
Đội mã bộ, lục sư các
trấn.
Từ Hà Di đến tận Tát
Ma.
Tám đạo rộng, bốn gò
xa,
Phú Sơn cao ngất, Tì
Bà trong veo[8].
Tướng, tá, uý, cũng
theo Tây lệ,
Đủ vương binh, pháo vệ
chỉnh tề,
Đồng bào nghĩa khí gớm
ghê,
Cái thù nô lệ, ắt thề
giả xong.
Năm Giáp Ngọ[9] đùng
đùng sóng gió,
Vượt quân sang thẳng
trỏ Đại Hàn.
Quân Lục Áo, tướng
Thái Sơn,
Ra tay cho biết cái
gan anh hùng.
Đông tam tỉnh[10] thu
trong tay áo,
Bọn trắng da ngơ ngáo
giật mình,
Cuộc hoà đâu bất
thình lình,
Chủ trương này dễ Nga
đình vẽ khôn.
Bụng ái quốc ghê hồn
Nhật Bản,
Giận xung quan khôn cản
nghĩa đồng cừu.
Đã toan trở súng quay
tàu,
Y Đằng[11] can khéo
mưu sâu vãn hồi.
Nhận bồi khoản Bành,
Đài nhượng địa,
Trong mười năm rồi sẽ
chịu nhau.
Nga kia nước lớn lại
giàu,
Bên giường giấc ngáy,
dễ hầu chịu yên,
Hàn với Mãn lợi quyền
thu sạch[12],
Xe Nhĩ Tân, tàu lạch
Sâm Uy[13].
Cõi Đông đương cuộc
an nguy,
Có ta, ta phải phù
trì chúng ta.
Việc khai hấn chắc là
quyết liệt,
Đất Á Đông thấy huyết
phen này.
Giáp Thìn trong tháng
Chạp tây,
Chiến thư hai nước đợi
ngày giao tuy.
Trận thứ nhất Cao Li
lừng tiếng,
Khắp toàn cầu muôn miệng
đều khen.
Sa trường xung đột mấy
phen,
Ngọn cờ Áp Lục, tiếng
kèn Liêu Đông.
Châu Lữ Thuận mơ màng
khói bạc,
Thành Phụng Thiên ngơ
ngác non xanh.
Hải quân một trận tan
tành,
Thái Hoa cắt núi,
Đông Thanh xẻ đường.
Sức hùng vũ ai đương
lại được,
May điều đình có nước
Hoa Kì.
Khéo điều hoà cuộc giải
vi,
Nếu không Bỉ Đắc[14]
còn đâu là đời.
Hội vạn quốc diễn bài
thương nghị,
Chấu mới voi chuyện
cũng nực cười.
Xem trong hoà khoản
mười hai,
Bề nào Nga cũng chịu
lui trăm phần.
Cuộc tang hải khuất
thân từng lúc,
Áng liệt cường nay
cũng chen vai.
Khen thay Nhật Bản
anh tài,
Từ nay danh dự còn
dài về sau.
Ngồi mà nghĩ thêm sầu
lại tủi,
Nước Nam mình gặp buổi
truân chuyên.
Dã man quen thói ngu
hèn,
Cũng như Minh Trị dĩ
tiền khác đâu.
Từ giống khác mượn
màu bảo hộ,
Mưu hùm tinh, lừa lũ
voi già.
Non sông thẹn với nước nhà,
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu.
Việc dây thép, việc tàu, việc pháo,
Việc luyện binh, việc giáo học trường,
Việc công nghệ, việc nông thương,
Việc khai mỏ khoáng, việc đường hoả xa.
Giữ các việc chẳng qua người nước,
Kẻ chức bồi, người tước culi.
Thông ngôn kí lục chi chi,
Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang.
Các thức thuế các làng thêm mãi,
Hết đinh điền rồi lại trâu bò.
Thuế chó cũi, thuế lợn bò,
Thuế diêm, thuế tửu, thuế đò, thuế xe.
Thuế các chợ, thuế trà, thuế thuốc,
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn.
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền,
Thuế rừng tre gỗ, thuế thuyền bán buôn.
Thuế gò, thuế bãi, thuế cồn,
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn.
Thuế dầu mật, thuế đàn đĩ thoã,
Thuế gạo rau, thuế lúa, thuế bông.
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng,
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kì.
Các thức thuế kể chi cho xiết,
Thuế xia kia mới thật lạ lùng,
Làm cho thập thất cửu không,
Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi.
Lại nghe nỗi Lào Cai, Yên Bái[15],
So muôn người như giải lũ tù.
Ăn cho ngày độ vài xu,
Việc làm gian khổ, công phu lạ lùng.
Độc thay phong chướng nghìn trùng,
Nước sâu quẳng xác, hang cùng chất xương.
Nỗi diệt giống bề lo bề sợ,
Người giống ta biết có còn không?
Nói ra sởn gáy động lòng,
Cha con khóc lóc, vợ chồng thở than.
Cũng có lúc bầm gan tím ruột,
Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.
Cũng xương cũng thịt cũng da
Cùng hòn máu đỏ, giống nhà Lạc Long.
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Bốn mươi năm nhơ nhuốc lầm than.
Thương ôi! Bách Việt giang san,
Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
Hồn mê mẩn tỉnh chưa, chưa tỉnh?
Anh em ta phải tính nhường sao.
Đôi bên, bên nọ, bên
cừu,
Họ khôn phải học, cừu
sâu phải đền.
Việc tân học phải đem
dựng nước,
Hội dân đoàn, cả nước
với nhau.
Sự buôn phải lấy làm
đầu.
Mọi nghề cũng ghé địa
cầu một vai.
Bây giờ kể còn dài
chưa hết,
Chữ tự do xin kết bên
lòng.
Gương Nhật Bản đất Á
Đông,
Giống ta, ta phải soi
trông kẻo nhầm.
Bốn mươi triệu đồng
tâm nhất đức,
Mãnh hổ kia đem sức với
quần dương.
Hiệu cờ nổi chữ tự cường,
Thay bầy nô lệ làm
phường văn minh.
Kìa thuở trước như
Anh, Pháp, Đức,
Cũng chẳng qua cùng cực
tắc thông,
Hoạ may trời có chiều
lòng,
Việt Nam dựng lại,
phương Đông có mình.
Thân phiêu bạt đã
đành vô lại,
Bấy nhiêu năm Thượng
Hải, Hoành Tân.
Chinh Nga nhân lúc
hoàn quân,
Tủi mình bô bá[16],
theo chân khải hoàn.
Bưng chén rượu ân ban
hạ tiệp[17],
Gạt hàng châu khép
nép quỳ tâu,
Thiên Nam mù mịt ngàn
dâu,
Gió Tây như thồi dạ sầu
năm canh.
Biết bao nỗi bất bình
khôn giải.
Mượn bút hoa mà cải
quốc âm,
Thân giàn bao quản
cát lầm,
Khuyên ai đúc chữ đồng
tâm sau này.
Chú thích:
[1] Á Tế Á: châu Á,
phiên âm từ “Asie”.
[2] Âu La Ba: châu
Âu, phiên âm từ “Europe”.
[3] Mạc Phủ: thủ lĩnh
của chư hầu thường lấn át quyền vua; Phiên Bang: những nước chư hầu nhỏ.
[3] Kể từ khi lập quốc
đến nay có 2500 năm lịch sử và trải qua 122 đời vua cùng họ.
[4] Thần Hộ: Kobe
[5] Lưu Cầu: quần đảo
Ryukyu ở phía nam Nhật Bản, nay là Okinawa.
[6] Cột đèn bể, nhà
bán báo, đầy rẫy ở bến tàu (phụ đầu).
[7] Bác đĩnh: pháo
thuyền nhỏ, có đặt súng đại bác.
[8] Phú Sĩ: núi Fuji
gần Kyoto; Tì Bà; hồ Biwa gần Kyoto.
[9] Năm 1894. Cả đoạn
thơ này nói về việc tranh chấp giữaTrung-Nhật thời đó.
[10] Tức ba tỉnh miền
Đông TQ là Phụng Thiên, Cát Lâm, Hắc Long Giang.
[11] Y Đằng tức Ito,
thủ tướng Nhật thời đó.
[12] Chỉ Triều Tiên
và Mãn Châu bị xâm chiếm.
[13] Đường xe lửa Cáp
Nhĩ Tân và bến tàu thuỷ hải Sâm Uy.
[14] Bỉ Đắc: Thành phố
Saint Péterbourg, thủ đô Nga. Ý câu này nói Nga có thề mất cả kinh đô.
[15] Chỉ việc làm đường
xe lửa Yên Bái-Lào Cai.
[16] bô bá: trốn
tránh
[17] hạ tiệp: tiệc tượu
vui mừng chiến thắng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét