Có một giờ G khác vào năm 1974
SGTT.VN - 35 năm hoạt động, trên vai áo ông từng đeo quân hàm không
quân hai bên là đối thủ của nhau. 22.000 giờ bay với nhiều loại phi cơ chiến đấu
và dân dụng hiện đại nhất từ Đông sang Tây, từ Á sang Âu. Những nếm trải cuộc đời,
dường như Nguyễn Thành Trung chẳng thiếu thứ nào. Người ta thường nói vinh
quang đi cùng cay đắng. Còn ông, sống chết, tù tội chẳng màng, nhưng những giây
phút cô đơn trong cuộc sống hoà bình, ngay trong lòng đồng đội thì thật dài và
khó quên. Tháng tư đến rồi lại đi cùng ký ức…
Chặng đường lịch sử dài 38 năm có quá nhiều biến cố, sự kiện ném bom
dinh Độc Lập ngày 8.4.1975 đối với ông có ý nghĩa gì? Bây giờ nghĩ về giây phút
ấy ông cảm thấy thế nào?
Đối với cá nhân tôi, ngày 8.4.1975
là một bước ngoặt lịch sử quan trọng nhất trong cuộc đời. Lái chiếc máy bay
F-5E ném hai trái bom xuống dinh Độc Lập, sau đó quay lại dùng súng phóng lựu
vào kho xăng Nhà Bè, là hành động mà tôi ấp ủ trong một quá trình dài, ngay từ
thời trai trẻ.
Đối với tôi, chấm dứt chiến tranh để
người Việt Nam không còn đổ máu là một việc lớn phải làm. Đó không phải là cảm
hứng nhất thời, hay bất chợt, liều lĩnh. Sự nỗ lực cá nhân suốt bao nhiêu năm ở
khoa toán – lý đại học Khoa học Sài Gòn, trong vỏ bọc sĩ quan không lực Việt
Nam Cộng hoà, hay tại các trung tâm học lái máy bay chiến đấu ở Hoa Kỳ từ năm
1969 – 1972 tôi vẫn chuyên chú cho hành động ấy. Tôi âm thầm luyện tập hạ cánh ở
cự ly gần 1.000 mét (trong khi máy bay F-5E phải đáp trên đường băng dài tối
thiểu 3.000 mét) đến độ hư hai máy bay và phải chịu kỷ luật hạ lương, giáng chức,
suýt nữa là bị lộ tại sân bay Biên Hoà. Nhờ vậy mà ngày 8.4 năm ấy tôi đã hành
động chính xác, đáp xuống an toàn tại sân bay dã chiến Phước Long vừa giải
phóng. Có thể gọi đó là sự chính xác của lý trí và khoa học. Bước ngoặt 180 độ
đó cho tôi được chính danh là tôi – Nguyễn Thành Trung như ngày hôm nay.
Nhưng báo chí cả hai phía lúc đó chạy những dòng tít lớn gọi ông là “phi công phản chiến”?
Sau
khi ném bom Dinh Độc Lập, phi công Nguyễn Thành Trung đã lái máy bay F5E
hạ
cánh an toàn xuống sân bay Phước Long.
|
Nhưng báo chí cả hai phía lúc đó chạy những dòng tít lớn gọi ông là “phi công phản chiến”?
Đúng vậy, cấp trên nói với tôi là cần
tuyên truyền như vậy để kêu gọi những người trong lực lượng không quân Sài Gòn
tiếp tục phản chiến. Tôi nghĩ nói sao cũng được, vấn đề là tôi có làm được nhiệm
vụ không? Có còn sống để trở về không? Từ năm 1969, tôi đã là đảng viên.
Còn các đồng nghiệp của ông nói gì về hành động của ông?
Ngay lúc đó thì tôi không biết họ
nói gì, nhưng sau này nhiều người cho là tôi hành động hơi dại dột, bởi trước mắt
tôi là một hợp đồng với phía Mỹ, sẵn sàng bảo lãnh vợ con tôi sang sống ở Mỹ với
điều kiện tốt nhất. Nhưng đó không là lựa chọn của tôi.
Vậy lựa chọn của ông bắt nguồn như thế nào, truyền thống cách mạng của
gia đình hay sự tự giác của cá nhân ông?
Ba tôi là một người yêu nước, chống
thực dân và hy sinh tại quê nhà. Các anh tôi cũng đi theo con đường yêu nước của
ba tôi. Cái chết của ba tôi, càng làm cho tôi ý thức rõ ràng hơn là phải góp phần
làm cho chiến tranh sớm chấm dứt, quê hương và dân tộc mình phải được sống
trong cảnh thanh bình. Tôi là người biết rõ mình là ai, mình cần phải làm gì.
Những việc quan trọng cần làm tôi luôn dự liệu trước hàng chục năm.
Thời khắc đó ông có nghĩ đến sự an toàn của vợ và hai con còn quá nhỏ
đang sống ở thành phố Biên Hoà? Có khi nào ông cảm thấy khổ tâm hay hối hận về
hành động của mình mang lại nỗi vất vả cho vợ con?
Trước khi ném bom dinh Độc Lập ngày
8.4.1975, lãnh đạo đề nghị đưa vợ con tôi ra vùng giải phóng để tôi yên tâm làm
nhiệm vụ. Nhưng lúc đó, tôi bị nghi kỵ nhiều, nguy cơ bị lộ rất cao nên chuyện
đó là không thể. An ninh quân đội theo sát gia đình tôi từng giờ, nếu vợ con
tôi vắng nhà không rõ lý do thì tôi sẽ bị bắt ngay tức khắc. Cũng có thể trên
đường ra vùng giải phóng, vợ con tôi cũng sẽ bị bắt, tình thế đó sẽ nghiêm trọng
hơn. Rất lo lắng cho tính mạng vợ con, nhưng việc mà tôi đã tính trước 10 năm đến
thời điểm này là không thể dừng. Mặt khác, thời gian sống trong đội ngũ không lực
Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì đến
công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa tròn
năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn.
Thực tế diễn ra đúng như tôi dự
đoán. Cánh an ninh không quân đưa xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối vì
mình không biết gì về công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa bà, chúng tôi không
bắt bà (nếu bắt chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới
đây mời bà vào phòng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính mạng
của bà và các con bà. Nếu bà có tài sản quý giá nào thì bà cứ mang theo”. Một
tuần sau vợ và con tôi bị đưa từ Biên Hoà về số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sài Gòn
cho đến ngày 30.4.1975. Đương nhiên, họ
vẫn điều tra vợ tôi về những gì liên quan đến tôi, nhưng không bị đối xử vô
nhân đạo. Có thể đó là những người có học và biết cách ứng xử một cách văn hoá
với người thân của kẻ thù. Trong thời gian vợ tôi bị giam ở số 4 Nguyễn Bỉnh
Khiêm, trung tướng không quân Trần Văn Minh đến thăm với tư cách người chỉ huy
có một người lính phản chiến. Ông ấy hỏi vợ tôi có cần bạn bè, người thân đến
chuyện trò gì không hay cần mua sắm gì thì ông sẽ giúp đỡ.
Vậy đó, ngày 2.5.1975, tôi lái máy
bay từ Phan Rang về sân bay Biên Hoà. Vợ con tôi cũng vừa được giải thoát khỏi
số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi gặp lại nhau trong ngôi nhà nhỏ của mình.
Sau ngày thống nhất đất nước, đối diện với bao khó khăn của cuộc sống thường ngày do nền kinh tế bao cấp áp đặt,
những lúc ngột ngạt, mệt mỏi ông nghĩ gì?
Tôi là người được học hành tử tế
trong những ngôi trường khá lý tưởng của Sài Gòn và tiếp cận nhiều nguồn tài liệu
khác nhau, tôi biết rõ những sai lầm trong chính sách kinh tế của miền Bắc nước
ta. Bi kịch cải cách ruộng đất còn nguyên đó, công nghiệp chẳng có gì. Khu gang
thép Thái Nguyên còn thô sơ lắm, Dệt Nam Định, Sứ Hải Dương chỉ sản xuất được
những mặt hàng tiêu dùng cấp thấp, đặc biệt là hạn chế về trình độ của cán bộ
quản lý. Sự khác biệt về ý thức hệ giữa hai miền, nhất là do đặc thù của nền
kinh tế tự cung tự cấp, cho tôi nhìn rõ sau khi Việt Nam thống nhất, kinh tế sẽ
cực kỳ khó khăn ít nhất là mười năm. Tôi chuẩn bị tinh thần đối phó với những
khó khăn chung, và cả những khó khăn về mặt cá nhân, nghi ngờ, hay có những
phân biệt đối xử này nọ... Tôi chấp nhận đối diện thực tế đó và nghĩ điều quan
trọng nhất mình có được là dân tộc Việt được sống trong hoà bình.
Thực tế mười năm khó khăn như ông nói cũng đã được tháo gỡ bởi bước
chuyển đổi mới. Nhưng tới bây giờ, người ta lại tiếp tục đưa ra dự báo mình lại
đang hụt hơi, tụt đà. Ông nghĩ thế nào?
Thực ra đổi mới một phần vì khi
mình tiếp xúc với thế giới mới ngộ ra một điều là đang bị co trong vòng luẩn quẩn,
không tìm ra lối thoát trong khi thế giới ào ào tiến lên. Từ ảnh hưởng đó đồng
thời tác động mạnh của cuộc khủng hoảng Đông Âu tới mình và cả Trung Quốc, bắt
buộc phải một phần nào đó chấp nhận cách làm ăn mới, có sự tư hữu. Tư hữu của
thế giới mình không chấp nhận, nhưng con người có quyền tư hữu từ hàng ngàn năm
về trước. Mình luẩn quẩn trong khi thế
giới đang tiến lên bởi mình không chấp nhận dân làm giàu. Cho nên bắt buộc
mình phải công nhận, phải chấp nhận tư hữu ở một mức độ nào đó để dân thở được.
Khi đó dân bắt đầu làm ăn được. Cải cách
vì vậy là do dân. Cuộc cách mạng này do dân và do lịch sử thế giới tác động. Nếu
muốn không tụt đà thì phải nương vào sức dân, dân giàu thì nước mới mạnh.
Sau ngày 30.4, ông có thường gặp lại đồng nghiệp trong những phi đội
cũ? Tình cảnh và và tâm thế lúc gặp lại như thế nào?
Bẵng mười năm sau giải phóng, tôi
không gặp lại ai trong nhóm những đồng nghiệp cũ. Sau đổi mới, từ năm 1986 trở
về sau này, các đồng nghiệp cũ của tôi lần lượt về mới có dịp gặp lại. Lớp tôi
có 23 đứa, chết hết bốn, 18 đứa qua Mỹ, chỉ còn mình tôi ở lại. Những lần gặp
cũng dễ nói chuyện vì họ đã hiểu rõ mọi chuyện. Tôi cũng hoàn toàn hiểu và tôn
trọng họ. Đa phần những đồng nghiệp của tôi đều ở Mỹ. Lúc mới về, tâm lý chung
mấy người bạn đều ngại gặp tôi. Tôi thì chả ngại gì, tôi vẫn xem họ là những
người bạn. Khi gặp cũng tâm sự nhiều, cũng so sánh chuyện cũ, chuyện bây giờ.
Ai cũng công nhận việc tôi làm là góp phần chấm dứt cuộc chiến tranh, chấm dứt
cảnh chết chóc, đổ máu. Nhưng điều họ chia sẻ là họ không dám có những quyết định
như vậy.
Những người bạn lựa chọn khác tôi
lúc qua Mỹ còn trẻ nên ai hội nhập được, sống khá giả. Năm nào mấy ổng cũng ngồi
lại với nhau, chuyện nói nhiều nhất là về tôi. Nhiều anh em bảo quyết định của
tôi hơi dại dột, vì sau giải phóng sống kiểu gì cũng bị nghi ngờ, đói khổ… Tôi
trả lời đó không phải là quyết định bậy bởi tôi ý thức được việc cần làm. Cái
gì cũng vậy, làm thì phải trả giá nhưng tôi chấp nhận việc đó. Nhưng qua những
thăng trầm của đất nước, nhiều kinh nghiệm cuộc đời đúc kết lại, tôi thấy việc
tôi làm càng ngày càng đúng. Còn hỏi tôi có lăn tăn hay không, tôi trả lời thật
là thánh mới không lăn tăn, nhưng những cái lớn nhất át những lăn tăn nhỏ đi,
nên hàng đêm tôi ngủ yên vì biết tôi đang ngủ trên đất nước mình, chứ qua Mỹ sướng
thật nhưng ngủ không yên bởi lúc nào cũng đau đáu một quê hương chỉ còn trong
ký ức. Nhiều đứa bạn nói thẳng: “Đến bây giờ mới nghe được một người nói điều
đó là mày”. Chúng tôi gặp nhau trao đổi thẳng thắn, không giấu giếm điều gì,
nói đến tận cùng suy nghĩ của mỗi người.
Với ông, quê hương là thế nào?
Tôi có tới hai quê hương. Một Bến
Tre nơi tôi sinh ra, nơi đó là dòng tộc máu mủ, nơi đó cha mẹ tôi đã nằm xuống
cho chúng tôi trưởng thành. Vốn là xứ học, địa linh nhân kiệt, nhiều tên tuổi
trí thức lớn Việt Nam xuất phát từ đây. Những Phan Thanh Giản, Võ Trường Toản,
Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Đình Chiểu… là những tấm gương của nhân – nghĩa – lễ –
trí – tín mà tôi từng học được.
Còn một quê hương khác, Sài Gòn đối
với tôi là máu thịt, là tình yêu, là gì đó không thể lay chuyển được dù cho năm
tháng trôi qua, nhìn góc phố thay đổi, cũng nhiều lúc buồn vui hờn giận, tiếc
nuối…
Ông từng thổ lộ về một người bạn rất thân, giữa ông với người đó hình
như có một món nợ ân tình đến nay vẫn còn đau đáu?
Người bạn ấy đến giờ sau 38 năm vẫn
chưa gặp lại mặc dù tôi nghe tin ảnh có quay về. Ảnh cùng ở phi đoàn phản lực
không quân Sài Gòn với tôi nhưng không phải cùng lớp. Anh ấy là một người đặc
biệt. Khi đó, lãnh đạo báo cho tôi biết có một cán bộ nội tuyến trong lực lượng
pháo binh bị bắt khai có một phi công quê Bến Tre là nội tuyến của Việt cộng.
Tôi nhẩm tính trong không quân có độ chục người gốc gác Bến Tre, riêng phi đoàn
phản lực thì có tôi và người bạn mà tôi kể ở trên, người cùng xã, cùng học trường
tiểu học nhưng trên tôi hai lớp. Khi thông tin bị lộ như thế thì tất cả những
người gốc Bến Tre đều bị triệu tập điều tra. Anh bạn tôi bị ngưng bay, an ninh
không quân gọi lên làm việc liên tục. Anh ấy không biết có chuyện gì, nhưng tôi
thì biết rõ nguyên nhân. Tuy lý lịch anh ấy không có vấn đề gì nhưng anh có người
chị học đại học sư phạm từng tham gia biểu tình chống Mỹ và chính quyền Sài
Gòn. Lúc đó, tôi cũng như ngồi trên lửa, nhiều chuyện không thể tâm sự, chia sẻ
với ai được. Khoảng một tuần sau, tôi gặp ảnh và tôi nghĩ ảnh biết rõ về tôi, từ
gia đình đến công việc của tôi. Ảnh nói: “Riêng mày thì tao “ba không”, ai hỏi
tao về mày tao cũng không biết, không nghe, không thấy”. Khi nghe câu đó, tôi
nhập tâm đến giờ, tới chết tôi sẽ mang theo lời nói và hình ảnh của anh ấy.
Tôi ngẫm nghĩ ở đời có nhiều người
cực xấu nhưng cũng có nhiều người cực tốt. Cái tốt - xấu đó mong manh lắm,
nhưng người ta không cần xác nhận. Là bạn thân nên anh ấy bảo vệ chứ không phải
vì tôi là Việt cộng hay cán bộ mà anh ấy ứng xử như vậy. Trong thâm tâm tôi nhiều
lần muốn gặp lại anh ấy, nhưng để làm gì, nói một lời cảm ơn liệu có ý nghĩa
gì? Tôi động viên mình có lẽ trong tình cảnh ấy đến giờ chỉ cần hai tâm hồn bạn
bè hiểu nhau là đủ. Tôi nguyện cho tới chết tôi sẽ mang điều ấy theo.
Ông đã bước ra khỏi vỏ bọc của một điệp viên, lái máy bay trên bầu trời
hoà bình, và làm công việc đào tạo, hết lòng với một thế hệ phi công trẻ Việt
Nam. Điều đọng lại trong ông sau thời gian dài gắn bó với công việc đào tạo, huấn
luyện ấy là gì?
Giã từ cuộc chiến, tôi thấy mình
làm khá nhiều việc mà những việc đó chắc không phải ai cũng làm được. Hồi còn sống,
anh Hai Trung (tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn) nói nửa đùa nửa thật: “Việc ông ném
bom dinh Độc Lập, Nhà nước phong ông anh hùng thì tôi không nói làm gì, còn
công việc ông làm sau này nếu được, tôi phong ông hai lần anh hùng nữa”. Anh
Hai Trung hiểu về công việc đặc thù của tôi. Khi giải phóng, cả một bề thế
không quân chế độ cũ bỏ lại, tôi là người làm sống lại phi đội A37 sau này tham
gia đánh Tân Sơn Nhất vào ngày 28.4 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. F5 là
máy bay chiến đấu hiện đại nhất của Sài Gòn lúc bấy giờ mà Mỹ bỏ lại mấy phi
đoàn nhưng không có người bay. Giá trị vậy nhưng bỏ lại quá lâu bị hư hại nhiều,
có chiếc bị bắn phá thủng lỗ chỗ. Nhiều chiếc còn bị bộ đội tiếp quản tháo đi
những tiện nghi nội thất hay linh kiện quan trọng… Sau khi thành lập bộ phận tiếp
quản, tôi nhận nhiệm vụ làm sống lại những chiếc máy bay này. Khi sửa xong, tôi
là người bay thử. Phi công bay thử của người ta điều kiện bảo hiểm ngặt nghèo lắm,
còn tôi thì như con thiêu thân. Gần 50 lần bay như thế, tôi luôn sẵn sàng tình
huống nhảy dù khẩn cấp bởi máy bay có thể hư bất cứ lúc nào. Mỗi lần bay, nhiên
liệu chỉ cung cấp đủ phân nửa cơ số. Vốn là người nhạy cảm trong cuộc sống, con
ruồi bay qua tôi phân biệt ruồi đực hay ruồi cái, huống chi chuyện nhiên liệu
chỉ đủ bay một vòng trong bán kính hẹp. Điều lăn tăn mà tôi kể trên là như vậy
đó.
Tháng 8.1975 sau khi hồi phục xong
rồi, tôi huấn luyện cả một phi đội, bay thành thục F5 để thành lập trung đoàn
không quân 935, sau này trở thành trung đoàn anh hùng.
Đã quá cái tuổi lục thập nhi nhĩ thuận, còn điều gì ông thấy hối tiếc,
hoặc món nợ nào ông chưa trả được?
Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là
không được chết vì Hoàng Sa. Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm
đảo Hoàng Sa, phía Việt Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt
trên đảo Phú Lâm. Hai bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng
quân số Trung Quốc đông quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa về Trung
Quốc. Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự
để chiếm đảo của Việt Nam một cách phi pháp. Đây là sự kiện lớn, dư luận thế giới
cũng phản đối việc đó.
Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng
hoà không thể đổ bộ chiếm lại đảo được. Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu điều năm phi đoàn F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi
phi đoàn có 24 máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng
Sa. Mọi người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần
lãnh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, 536 –
Đàm Thượng Vũ, 540 – Nguyễn Văn Thanh, 544 – Đặng Văn Quang, 538 – Nguyễn Văn
Giàu đều đã lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng.
150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5
của không lực Việt Nam Cộng hoà khi đó đều ký tên chung vào một lá đơn tình nguyện
“Xin được chết vì Hoàng Sa”.
Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ
bay và chụp ảnh các toạ độ từ nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi gì, tàu chiến
Trung Quốc di chuyển ra sao, bố trí các cụm phòng thủ thế nào… đưa về chiếu ra
cho tất cả phi công theo dõi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số
ghi trên tàu, chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi
đoàn thứ năm bay bảo vệ trên không. Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi
tôi là đánh chìm tất cả 43 tàu đó trong vài giờ.
Về không quân, vào thời điểm đó
chúng tôi có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc. Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự
ly từ đảo Hải Nam ra. Ưu thế của phi đội tụi tôi là máy bay bay ra, đánh nửa tiếng
vẫn thừa dầu bay về còn Trung Quốc chỉ có Mig 21, bay ra đến Hoàng Sa thì không
đủ dầu bay về. Khí thế phi công lúc đó hừng hực, mấy anh chỉ huy trưởng từ đại
tá trở xuống đòi đi đánh trước. Tất cả háo hức chờ đến giờ G là xuất kích.
Nhưng giờ G ấy đã không đến. Hạm đội 7 của Mỹ trên biển không cứu các hạm đội của
đồng minh Việt Nam Cộng hoà bị bắn chìm và bị thương trên đảo. Dường như vì lợi
ích của mình, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn
vẹn lãnh thổ của quốc gia khác.
Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc mình, cha ông ta đã đắp xây nên bờ
cõi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ lấy.
Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho Hoàng Sa. Tới
bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng cùng một tâm trạng:
đáng lẽ tụi mình chết cho Hoàng Sa thì vinh dự hơn!
Là người đi nhiều nơi, có điều kiện tiếp cận với chuyện làm ăn, ông thấy
phẩm chất, tư cách của người Việt Nam có đứng được ở những thị trường minh bạch?
Cũng tuỳ người. Thí dụ như thị trường
Lào, nhiều nhà đầu tư của mình không dám qua đó nữa bởi vì làm kiểu nói dóc, hứa
nhiều nhưng làm chẳng bao nhiêu. Họ nói thẳng là mấy ổng đó qua họ không tiếp.
Cách làm ăn của người Việt mình cũng có nhiều cái người ta không chấp nhận, chỉ
chụp giật, bốc hốt ở đây thôi chứ ra ngoài người ta không chấp nhận.
Hiện nay ông có bằng lòng với cuộc sống của mình?
Thời nào tôi cũng bằng lòng với hiện
tại. Thời khó khăn nhất cũng như khi đất nước đổi mới đến nay, tôi bằng lòng với
những cái mình hiện có. Đó là hạnh phúc tự tạo. Nếu để làm giàu tôi sẽ đi đường
khác và tôi biết cách làm giàu, nhưng tôi đã không lựa chọn như vậy. Tôi vẫn
nghĩ “tri túc tiện túc hà thời túc”, mình biết đủ thì lúc nào cũng đủ, còn ham
muốn, lúc nào cũng thấy thiếu thì không bao giờ đủ cả. Tôi bằng lòng với cuộc sống
con cái học hành đàng hoàng, lễ phép với cha mẹ. Hiện tôi vẫn chưa nhàn được,
tôi vẫn đi làm thuê, nhưng làm để vui, chứ làm để buồn thì tôi không bao giờ
làm.
Để giải toả những mệt mỏi trong công việc, ông có chơi thú giải trí gì
khác?
Tôi cũng thích nhiều nhưng tự thấy
mình không có điều kiện, chẳng hạn như đánh golf , làm sao đủ sức, đủ tiền mà
vác cái gậy mấy chục ngàn đô. Đối với tôi bây giờ sức khoẻ là trên hết, liệu sức
để làm việc thôi. Tôi sống trên không nhiều quá rồi, giờ ngồi dưới đất thú thực
là thấy tay chân tù túng, bay một tí cho vui nên đến nay tôi vẫn bay đều.
Cảm ơn về cuộc trò chuyện chân tình và thẳng thắn của ông.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét